Những bông cúc đều rụng cánh quá nửa, còn lại bao nhiêu đều thâm úa gần hết. Chúng đã quá cái độ tươi cười rồi. Cánh mảnh, nhụy mòn, cuống lả xuống và đài quắt đi, đóa hoa thật là gầy và ốm. Cúc không còn chủ nhân, cúc chỉ còn những bóng chiều một đi một mất…
Ấy là đời một người đàn bà góa.
Số phận của người đàn bà cũng giống như đóa cúc kia, gầy khô và héo quắt khi một mình gánh gồng trên vai cuộc đời của ba đứa con thơ. Nỗi trăn trở khôn nguôi cùng thời thế, với sự lớn lên từng ngày trong suy nghĩ của đàn con khiến người đàn bà chỉ quẩn quanh với trăn trở, trở trăn, tơ vò một nỗi. Rồi đây, bà cũng sẽ như bông cúc dưới gió thu, liệu các con bà có đủ bản năng xuôi theo một nguồn sống thuần túy ở trong cảnh thanh bần mà quán xuyến cuộc đời vốn lắm nỗi nhiêu khê?
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương.
Xuất thân trong một nhà giáo nền nếp, thuở nhỏ, từ năm 1938, ông học tiểu học ở Hà Nội, từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ... Ông từng thử sức trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945-1946), sau đó ông nhập ngũ, làm thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau là báo Quân đội Nhân dân).
Ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại Bản Pò Noa, Xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.
Thâm Tâm nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành. Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.
Ngoài ra, Thâm Tâm còn có 3 bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở. Đây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho thi sĩ bí ẩn T.T.Kh. trong năm 1940. Trong các bài thơ, ông tự nhận là người tình cũ của T.T.Kh. Một số người còn cho rằng chính ông là T.T.Kh. Tuy nhiên, vẫn không ai biết chính xác là như thế nào.
Thâm Tâm được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007
Tiếng Việt kì lạ kinh. Lạ nhất trong những tác phẩm tiền chiến đã từng đọc. Cảm giác cứ như vừa trải nghiệm 1 tác phẩm dịch thuật yếu tay chứ không phải 1 tác phẩm văn học Việt Nam bình thường.
Vục đầu chú mục vào mấy mươi trang giấy, thậm chí muốn đọc oang oang lên mà những truyện ấy chẳng đọng lại trong đầu chút nào. Nhưng một sáng đầu năm, trong quán café, nghe Lệ Thu hát Mộng chiều xuân, bỗng thấy truyện Thâm Tâm ôi sao mà tình cảm nồng đượm, sao mà chan chát vị chè tươi mà ngòn ngọt vị mật ong đến thế? Phải chăng đấy chính là nỗi lòng hai nhiếp ảnh gia trong "Đằng sau cái xe lăn đường", rằng không gian nghệ thuật với đời phàm vốn dĩ luôn khu biệt, và người ta càng ước ao được gần gụi với nghệ thuật bao nhiêu thì trở lực của sinh hoạt thường ngày lại kháng cự đến bấy nhiêu? Tuyển tập "Gió thu hoa cúc gầy rồi" không phải truyện nào cũng đặc sắc, một số truyện nhà văn viết khi còn xuân xanh, nhưng nếu cố công chắt lọc cũng sẽ được những đoạn văn hay, những bài học quý. Chẳng hạn, khi đọc tới Tặng người yêu thơ, tôi chép được mấy câu tâm đắc: “- Thơ anh càng ngày càng thống thiết, là vì một người. Vậy mà người ấy không hề biết anh là thi sĩ bao giờ cả. Tại sao anh muốn giấu kín những tiếng thương tâm đi? Triệu cười mà đáp rằng: - Nếu đã có phen Lý yêu tôi, chính là yêu con người họ Triệu, tấm lòng họ Triệu, chứ không phải vì những vần thơ. Yêu thơ, là một chuyện khác. Bởi vậy, tôi cần gì Lý biết tôi là một thi sĩ? - Nhưng nếu Lý chỉ yêu kẻ làm thơ? - Thì trần gian thiếu gì kẻ làm được những vần thơ khéo léo ca tụng nhan sắc đàn bà. Tôi không phải kẻ làm thơ chỉ cốt để thỏa mãn tâm hồn Lý. - Nhưng, ở đời lại có một sự thật buồn đến thế này đây: Chính vì anh không đọc cho Lý nghe một câu thơ nào, mà bây giờ có kẻ đọc hộ. Xuân đã lợi dụng những bài thơ của anh để làm cho Lý mê say gã. Thì ra trước kia Lý yêu chính tấm lòng anh, mà bây giờ Lý yêu cả thơ anh nữa. - Tất cả, đều không còn gì. Nếu Lý vì những thơ tôi mà yêu được Xuân, thì Lý đã hiểu sai thơ tôi vậy. Cứ để cho họ gần nhau, vì họ thật xứng đáng với nhau. Tôi chỉ tiếc đã để cho Xuân thuộc nhiều thơ tôi quá. Nhưng thế càng hay, càng giúp tôi có cảm hứng làm xong thiên trần tình đặt lên đầu tập cảo. Thiên trần tình là một bài thơ mượn cái tâm sự thương nhớ chuyên nhất một người đẹp, phẫn nộ một mối tình u uất, cay đắng, một cuộc đời không kẻ đồng tâm, để giãi bày nỗi đau thương không thể gào thét của nhà thi sĩ hiên ngang, trong khi người đời dùng sai nghĩa nỗi đau thương ấy, để cho thi nhân càng xa cách “thần tượng” và thơ người hóa ra không ngoài những chuyện thường tình.”