Nguoi Lu Hanh buoc di, tung con song cua dai duong cuon theo, xoa sach tung dau chan di. Luu lai trong khach ao anh tien than, phang phat mui huong, va sac mau qua khu khong phai nhac. yatha maya yatha svapno gandharvanagaram yatha tathotpadas tatha sthanam tatha bhanga udahrtam MK. vii. 35 Nhu huyen tuong, nhu chiem bao, nhu thanh pho giua hu khong, cung vay, nhung gi xuat hien, ton tai, roi huy hoai. Da di roi da di chua Thuong phuong lua trang dong dua giua troi.
Phạm Công Thiện là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo với pháp danh Thích Nguyên Tánh( thời trẻ có bút hiệu Hoàng Thu Uyên dùng cho các tác phẩm dịch thuật). Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Ông đến với văn chương từ rất sớm. Từ năm 13 tới 16 tuổi, ông là cộng tác viên của tạp chí Bách Khoa. Năm 15 tuổi, ông đã đọc thông viết thạo năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, ngoài ra còn biết tếng Sancrit và tiếng La Tinh. Năm 1957, 16 tuổi, ông xuất bản cuốn tự điển Anh Ngữ Tinh Âm, nhưng từ vài năm trước đó cho đến khi rời Việt Nam vào năm 1970, ông đã cộng tác với các báo Bông Lúa, Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ. Từ những năm cuối thập niên 1950 ông đi dạy Anh ngữ tại một số trường tại Sài Gòn. Năm 1960, ông khởi sự viết cuốn "Ý thức mới trong văn nghệ và triết học" khi chưa được 19 tuổi. Thời kỳ này ông viết nhiều sách về Phật Giáo, dù ông theo đạo cơ đốc. Năm 18 tuổi, giữ chức giảng viên môn Triết học của Viện Đại học Vạn Hạnh. Về sau ông còn là giáo sư của nhiều trường đại học khác nữa dù chưa bao giờ đi thi tú tài, cũng chưa học một trường đại học nào. Năm 23 tuổi, ông cho ra đời cuốn sách Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền Tông, mà sau đó đã trở nên nổi tiếng. Đến năm 26 tuổi, ông đã có hàng chục cuốn sách triết học, tiểu luận và thơ. Ông cũng khởi xướng và tham gia tranh luận nhiều về đề tài Phật giáo trên các báo Sài Gòn. Đầu năm 1964, ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng sau một cuộc "khủng hoảng tinh thần". Tại đây ông quy y ở chùa Hải Đức, lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài Gòn. Từ năm 1966 - 1968, ông là Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa viện Đại học Vạn Hạnh. Từ năm 1968 - 1970, giữ chức trưởng khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện. Tại đây ông cũng là sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp chí Tư Tưởng. Ông rời Việt Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở Israel, Đức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles, giữ chức giáo sư Phật Giáo viện College of Buddhist Studies. Từ đó về sau, ông ở Mỹ và tiếp tục viết sách - phần lớn là nghiên cứu về đạo Phật. Ngày 8/3/2011, ông qua đời tại thành phố Houston, Texas, Hoa Kỳ, hưởng thọ 71 tuổi.
Hồi xưa đọc mấy cuốn Phạm Công Thiện xong chốt là không đọc ông này nữa. Kiểu đẹp nhưng mà nhiều cuốn sau cứ điên loạn chắp vá các triết thuyết tây phát mệt. Nhưng đợt này tới tiệm cơm có cuốn này tên hay quá thôi lại đọc =))) Thật hiếm có tác giả viết cả văn xuôi lẫn thơ đẹp cỡ này. Cuốn này làm mình nhớ tới cuốn mà mình có ấn tượng rất tốt là Mặt trời không bao giờ có thực. Tên hay thì thôi do mượn rồi. Nhưng lời dẫn cũng hay và mấy bài thơ đầu cũng hay. Ôi dồi ôi đọc "Mưa dột mấy rừng đào/ Thôi hết còn gặp nhau" nghĩ tới crush rấm rứt giữa tiệm xong lúc đi bộ về lại dính mưa đờ lờ nữa =))) Một trong những lý do không đọc Công Thiện nữa là nó u ám uỷ mị yếm thế ngày xưa có khi thích chứ giờ hãi hùng quá =))) Anw vì ăn cơm tiệm đó nên mỗi lần lại đọc ít trang. Công nhận nhiều bài đẹp dã man. Kiểu Du Tư Lê phiên bản cao cấp á. Nhưng cuốn này đậm chất Phật gíao mà lại pha tục đọc lắm lúc phản cảm kinh. Mình không anti gì mấy chuyện trai gái đâu nhưng phải nói là nó thô tục rác rưởi báng bổ á. Nghĩ cũng thương ông này, có khi cũng như mình, muốn tu mà ái dục chưa dứt được. Bạn bè khuyên đọc tiếp Pham Công Thiện với Tuệ Sỹ đi nhưng mình lại quyết không đọc nữa =)) kiểu nửa đời nửa đạo này lún sâu vào làm gì. So thế nào được với văn chương của những người đắc đạo.
Thôi tri ân chép mấy câu thơ chụp lúc ăn cơm:
"sau bao nhiêu năm mình mới trông thấy: những gì vẫn còn lại và những gì bị xoá" (này là thơ ông Goethe)
"Tượng Phật ở bàn thờ/ Dọn dẹp để trống trơ/ Tôi vẫn lạy chỗ trống? Chỗ trống thành bài thơ".
"Lắng vào trong cái nghe/ Rót vào lòng thật khẽ/ Lọt vào trong lặng lẽ/ Động tịnh đều dứt nhẹ".
"Càng xa càng mông lung/ Tới gần vẫn lạ lùng/ Nhắm mắt sao lạ quá/ Mở ra: ồ không cùng".
"Đời anh như con chó/ Chủ đem bán chợ trời/ Lạc đường em đứng ngó? Chiều hiu hiu lặng gió".
Đi
Đã đi thì đã đi rồi Thượng phương trùng điệp thấy gì nữa đâu Hạ phương ngày tháng bể dâu Sắt son tình cũ phượng cầu túy hương Có còn gì nữa mà thương Buổi trưa nằm ngủ thấy nường năm xưa.
Đã đi rồi đã đi chưa Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời Đã đi mất hẳn đi rồi Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều Chuyển hình trên đỉnh cô liêu Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn Đại Huyền biến ngưỡng triêu tôn Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao Án nga nga nẵng bạch nào Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim
Năm nàng thiên nữ tôn nghiêm Trùng quan ngũ sắc ứng điềm tán không Án Đa La tịch mịch hồng Mười phương xuất hiện những đồng sinh thiên Bát Nhã là gái thiên tiên Khoan thai cởi áo mây hiền trên cao Gió lùa thơm tóc tơ đào Thập bát Không Định tiêu dao tiếng đàn Trời mưa chim ngủ trên ngàn Sắt son tình cũ nước tràn sang sông
Đã đi rồi có đi không Thượng phương trùng điệp cỏ hồng thúy hương Đi đâu mà lại lên đường Hạ phương còn gặp cô nường năm xưa Đã đi rồi đã đi chưa Sắt son triều ngưỡng tình xưa hiện về Phượng cầu ngũ lĩnh sơn khê Một bông hồng nở bốn bề lặng im Năm nàng tiên đậu vào tim Âm nhập dương khởi lim dim xuất thần
Nhập định tam muội tần thân Trở về động cũ như lần gặp xưa Đã đi rồi đã đi chưa Đền thiêng triệu ngưỡng người xưa kiếp nào Tình bay lên nóng trăng sao Gió lùa thơm tóc cô nào năm xưa Đã đi rồi đã đi chưa Thương phương lụa trắng đong đưa giữa trời Đã đi mất hẳn đi rồi Hạ phương tịch mịch bỏ đời biệt tăm.
Từng câu chữ mang đậm chất Thiền. Tác giả vốn là một người nghiên cứu Phật học sâu sắc, vì thế điều này cũng phần nào dễ hiểu. Lời thơ trầm mặc, ý thơ chứa đựng nhiều triết lí nhân sinh. Một bài học vô giá về tĩnh lặng, khiêm nhuờng nhưng đầy uy lực. Thoạt đầu mới đọc qua chắc chắn không thể nào lãnh hội trọn vẹn, thậm chí chẳng hiểu chút gì. Đôi lúc, một bài thơ phải ngấm mấy lần mới hơi ngờ ngợ. Rất đáng quý.