Phạm Công Thiện là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo với pháp danh Thích Nguyên Tánh( thời trẻ có bút hiệu Hoàng Thu Uyên dùng cho các tác phẩm dịch thuật). Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Ông đến với văn chương từ rất sớm. Từ năm 13 tới 16 tuổi, ông là cộng tác viên của tạp chí Bách Khoa. Năm 15 tuổi, ông đã đọc thông viết thạo năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, ngoài ra còn biết tếng Sancrit và tiếng La Tinh. Năm 1957, 16 tuổi, ông xuất bản cuốn tự điển Anh Ngữ Tinh Âm, nhưng từ vài năm trước đó cho đến khi rời Việt Nam vào năm 1970, ông đã cộng tác với các báo Bông Lúa, Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ. Từ những năm cuối thập niên 1950 ông đi dạy Anh ngữ tại một số trường tại Sài Gòn. Năm 1960, ông khởi sự viết cuốn "Ý thức mới trong văn nghệ và triết học" khi chưa được 19 tuổi. Thời kỳ này ông viết nhiều sách về Phật Giáo, dù ông theo đạo cơ đốc. Năm 18 tuổi, giữ chức giảng viên môn Triết học của Viện Đại học Vạn Hạnh. Về sau ông còn là giáo sư của nhiều trường đại học khác nữa dù chưa bao giờ đi thi tú tài, cũng chưa học một trường đại học nào. Năm 23 tuổi, ông cho ra đời cuốn sách Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền Tông, mà sau đó đã trở nên nổi tiếng. Đến năm 26 tuổi, ông đã có hàng chục cuốn sách triết học, tiểu luận và thơ. Ông cũng khởi xướng và tham gia tranh luận nhiều về đề tài Phật giáo trên các báo Sài Gòn. Đầu năm 1964, ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng sau một cuộc "khủng hoảng tinh thần". Tại đây ông quy y ở chùa Hải Đức, lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài Gòn. Từ năm 1966 - 1968, ông là Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa viện Đại học Vạn Hạnh. Từ năm 1968 - 1970, giữ chức trưởng khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện. Tại đây ông cũng là sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp chí Tư Tưởng. Ông rời Việt Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở Israel, Đức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles, giữ chức giáo sư Phật Giáo viện College of Buddhist Studies. Từ đó về sau, ông ở Mỹ và tiếp tục viết sách - phần lớn là nghiên cứu về đạo Phật. Ngày 8/3/2011, ông qua đời tại thành phố Houston, Texas, Hoa Kỳ, hưởng thọ 71 tuổi.
mười năm qua gió thổi đồi tây tôi long đong theo bóng chim gầy một sớm em về ru giấc ngủ bông trời bay trắng cả rừng cây gió thổi đồi tây hay đồi đông hiu hắt quê hương bến cỏ hồng trong mơ em vẫn còn bên cửa tôi đứng trên đồi mây trổ bông gió thổi đồi thu qua đồi thông mưa hạ ly hương nước ngược dòng tôi đau trong tiếng gà xơ xác một sớm bông hồng nở cửa đông
Tập thơ duy nhất được xuất bản của thi nhân-triết nhân Phạm Công Thiện. Những bài thơ ngắn, số lượng được in ra cũng ít ỏi nhưng giá trị thì còn trường tồn.
tôi đi đông chìm trời âm u thung lũng khô nhiều mây chim bay không nổi
tôi đi dưới kia sụp đổ núi cấm nổ tôi ra cửu long ca từ tây tạng
tôi về tôi hiện đèn tắt trời gió tắt trăng chim lạ kêu tiếng người hố thẳm ra đời tôi bay trên biển
"đời đi trên những nấm mồ đau tim em hát cơ hồ khăn tang phố chiều tôi bước lang thang nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh nửa đêm khói đốt đời anh yêu em câm lặng khô cành thu đông lời ca ru cạn dòng sông trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên bỏ mình nước chảy đồi tiên theo con chim dại lạc miền thiên hương về đâu thương những con đường lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa"
"tôi chấp chới đắng giọng giữa tháng ngày mơ mộng nốt ruồi của hương hay nốt ruồi của rigvéda tôi mửa máu đen trên nửa đêm paris tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ mặt trời có thai! mặt trời có thai! sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt"
(Bài VI)
"rạng đông tôi xin thề thức dậy ba giờ sáng đợi kinh đào chảy ngược cửa nhỏ đóng kín những chiếc cầu tuổi dại mười sáu năm tôi thức trong đời mười sáu con kinh đào không bao giờ chảy ngược đứng ngang cầu pont-neuf nhìn sông seine tôi thấy cửu long paris đuổi mất mây mộng hoang đường đập vỡ cơn điên trên triền đá sương tôi trốn giặc đời tắm trong hồn hương trái đu đủ trong khu vườn xưa con rắn nhỏ"
(Bài V)
"buổi chiều mưa đụng tim mưa đụng máu đèn đường đổ xuống nước xanh xin hét lên rừng u minh đầu đông tử hình trong ngục nhốt vào trong ngục suốt đời trong ngục ... chùm hoa trắng rụng một hai bông rất nhỏ bông trắng quá nhỏ buổi chiều ích kỷ con đường quá dài những cây trắc bá chùi đầu lên nghĩa địa một người hoạ sĩ thất tình nhân loại đều thất tình nói đi thật nhiều khoai tây lang thang ngược vòng những vũ trụ anh nói gì tôi không nghe xuống phố và lên phố chạy hun hút qua hai nghĩa địa"
(Bài XII)
"mùa xuân bay thành khói tôi ca hát một mình suốt đời không biết nói nước chảy tràn con kinh quá khứ bay lên trời biến thành cánh chim non tôi quì hôn lá mới đau khổ trắng linh hồn hư không đổ ra khơi kỷ niệm trôi qua cầu bãi chiều chưa người tới tình nhỏ quên từ lâu xuân bay trắng núi đồi tôi nằm ngủ mơ chim bỗng hét lên trong tối ngồi thức dậy bảy đêm trời cuối năm gác trọ đèn tắt suốt đêm dài con chim mười năm nhỏ bay về đậu nơi đây hơi thở giết thời gian bướm nằm chết thang lầu tiếng chim ru ngày tháng máu chảy về sông sâu suốt đời không biết nói tôi ngồi thức một mình đốt thuốc lên nhìn khói đêm rạng điềm hư linh"
(Bài X)
"tôi nuốt nọc đen giữa đường guillaume apollinaire từ xóm saint-germain-des-prés mọc lên giáo đường hang động cà phê biến hồn đầu thai hoá thành một triệu con ma đen nhảy múa trên núi lửa đầu tôi tôi mặc đồ xanh và mang đồng hồ da đen tôi chứa chấp sáu ngọn lửa điên trong sáu diêm quẹt còn rớt lại tôi gọi hương và tôi chết giấc tôi chạy lên trời làm rắn thâu đêm máu đổ mưa đen ồ cây mồng tơi của thời trẻ dại tôi gọi thầm rắn cuộn tròn tương lai"
(Bài VII)
"trời mưa nữu ước cây mọc nhớ hương trời mưa ngày tháng nhớ hương đường hoang mái vắng nữu ước chỉ còn hương trong giấc ngủ tim anh tràn máu con chim đã bay về rừng đạn anh không còn làm tu sĩ anh chỉ còn hương trong giấc ngủ anh chỉ còn máu để đổ vào tim hương đổ vào tám tách cà phê đen anh uống mỗi đêm ..."
(Bài IV)
"tôi đi đông chìm trời âm u thung lũng khô nhiều mây chim bay không nổi
tôi đi dưới kia sụp đổ núi cấm nổ tôi ra cửu long ca từ tây tạng
tôi về tôi hiện đèn tắt trời gió tắt trăng chim lạ kêu tiếng người hố thẳm ra đời tôi bay trên biển"
đời đi trên những nấm mồ đau tim em hát cơ hồ khăn tang phố chiều tôi bước lang thang nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh nửa đêm khói đốt đời anh yêu em câm lặng khô cành thu đông lời ca ru cạn dòng sông trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên bỏ mình nước chảy đồi tiên theo con chim dại lạc miền thiên hương về đâu thương những con đường lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
sometimes i felt that this is not a poet from a guy but a poet of a tree to Xuan Huong lake, Dalat. cant enjoy more.
"trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa trên bước chân chiều phố lạ hôm nay mưa làm tóc anh thơm mùi cây quế giữa hồ mọc giữa hồ quế hương tóc anh mọc dài che chở hương lúc mưa rơi lúc đông lạnh lúc chim chiều đi mất mưa trên phố đêm trên quán cà phê ý đại lợi trên chiến tranh của quê hương của quế hương còn anh"