“Quyển Đốt lò hương cũ được xem là sáng tác cuối cùng của cố thi sĩ Đinh Hùng. Ông đã viết quyển này để tưởng niệm những văn, thi sĩ mà ông quen biết trong suốt thời gian lăn lộn trong nghiệp thi văn. Những Tản Đà, Thạch Lam, Bích Khê... đều được ông nhắc nhở trong những trang sách này, và đâu đâu cũng bàng bạc lời tiếc thương những người đã khuất, những người mà ông cho là “không bao giờ chết” vì họ chết đi nhưng vẫn sống trong lòng độc giả, vẫn sống trong tâm tư những thi, văn sĩ còn sống.” (Lửa Thiêng, 1971)
Ẩn bản này in theo bản Đốt lò hương cũ của Nhà xuất bản Lửa Thiêng, 1971.
Nhà thơ Đinh Hùng (1920 - 1967), các bút danh: Thần Đăng, Hoài Điệp Thứ Lang.
Sinh tại làng Phượng Dực, Hà Đông, Hà Nội.
Năm 1940 Đinh Hùng cho ra mắt tập thơ văn xuôi rất lạ “Đám ma tôi”, cùng tiểu thuyết “Dạ lan hương” và một số bài thơ ký tên Đinh Hùng, Hoài Điệp.
Sang 1941, Đinh Hùng xuất hiện khá đặc biệt trong tiểu thuyết Trại Bồ Tùng Linh của nhà thơ Thế Lữ qua bài thơ Kỳ nữ.
Việc biệt đãi liên tài này của bậc đàn anh đã đánh dấu sự nổi tiếng của Đinh Hùng.
Tập thơ Đường vào tình sử được trao giải thưởng Văn chương về thi ca, 1962.
Đinh Hùng làm giai phẩm Dạ Đài (1944), giai phẩm Kinh Đô văn nghệ (1952), lập ra nhật báo Tự Do (1954) và nổi tiếng với mục Tao Đàn trên Đài phát thanh Sài Gòn (1955)…
ĐINH HÙNG sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại làng Trung Phụng, ngoại vi thành Hà Nội (chánh quán làng Phượng Dực, tỉnh Hà Đông), Bắc Việt.
Thuở nhỏ, học trường Sinh Từ. Đậu tú tài khi học xong trường Bưởi, Hà Nội.
Tham gia sinh hoạt văn nghệ từ rất sớm, từ trước 1945, nhưng chỉ chính thức sống bằng nghề văn báo ít lâu trước khi di cư vô Nam (1952-54). Tại Sài Gòn, ông viết truyện dài dã sử (ký Hoài Điệp, Thứ Lang), làm thơ trào phúng (ký Thần Đăng), vẽ tranh, soạn kịch thơ và phụ trách mục thi ca Tao Đàn trên các luồng sóng phát thanh. Năm 1962, ông được trao tặng giải thưởng Văn chương Toàn quốc (về Thơ).
Ông từ trần ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại Bệnh viện Bình-dân Sài Gòn, sau một cơn đau ung thư bao tử, để lại một vợ ba con cùng một sự nghiệp còn dang dở.
Tác phẩm đã ấn hành: Mê hồn ca (thơ, Tiếng Đông phương, Hà Nội, 1954);Đường vào tình sử (thơ, Nam Chi Tùng thư, Sài Gòn, 1961); Ngày đó có em(thuật ký, Giao điểm, 1967), Đốt lò hương cũ (hồi ký, Lửa Thiêng, 1971) cùng vài cuốn truyện dài dã sử do Nguyễn Đình Vượng xuất bản khoảng 1959-60.
Đinh Hùng tạo được cho riêng ông một thi giới rất lạ, tựa như một con suối chảy từ trữ tình đến tượng trưng sang siêu thực, mang theo dòng những hình ảnh giàu có, một ngôn ngữ cá biệt và một tâm hồn lạ lùng của miền núi rừng hoang vu, bí ẩn, nguyên sơ…
Thường nhân đọc thấy hay ở chỗ à thế ra văn nhân cũng như mình đôi chỗ, còn đôi chỗ như người trên giời à kể cũng hay ho. Mình đọc thì bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, chẳng biết chọn một dòng hay để nước trôi. Cuộc đời có vẻ chộn rộn hơn khi lo những việc chẳng phải của mình. Đinh Hùng thì không có giọng của người phê bình.