Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) là một nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế,...
Sinh thời, ông viết và dịch rất nhiều sách (khoảng chừng 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế...)
1. Kinh doanh là gì? 2. Doanh nhân là ai? 3. Đâu là “đạo” của nghề kinh doanh? 4. Tại sao kinh doanh là một nghề cao quý và xứng đáng được tôn vinh?
Lượm nhặt từ quyển sách
I. Ngôi trường ĐÔNH KINH NGHĨA THỤC. - Hoàn cảnh ra đời: Pháp bắt đầu gây áp lực lên triều Nguyễn, nên buộc phải đưa ra hàng loạt các biện pháp “ngu dân” vì Pháp thấy tinh thần yêu nước của VN mạnh mẽ quá. May thay, còn những người như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Lương Văn Căn (học thức rộng, cao, tư duy tây lẫn ta) mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục để dạy “dân” (vì tư tưởng cốt lõi của mấy bậc sĩ phu lúc này là: Để XH thay đổi, tiến kịp nền văn minh chung của thế giới, công cụ số một là giáo dục quốc dân) - Cơ cấu trường: 4 ban: ban giáo dục, ban biên soạn sách, ban cổ động và ban tài chính. - Người khai sinh: Lương Văn Can, Phan Châu Trinh, Nguyễn Quyền và các bậc trí thức khác.. (những chí sĩ với tinh thần yêu nước ngùn ngụt trong huyết quản) - Địa điểm: trường học lúc này là nhà riêng của Lương Văn Can. - Kinh phí: các bậc trí thức tự bỏ tiền túi đóng góp vào để dạy dân chúng free. - Đối tượng: nam, nữ, già trẻ (đều học miễn phí) - Khẩu hiệu: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. - Cách giảng dạy: bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do - Mục đích: KHAI DÂN TRÍ. Không học để thi lên làm quan, học để có kiến thức thực nghiệp (xài được cho đời) - Tài liệu giảng dạy: Quốc Dân Độc Bản là một tài liệu giảng dạy rất quan trọng của đông kinh nghĩa thục.. Quốc Dân Độc Bản còn được coi như là một trong những tài liệu đầu tiên của VN đề cập đến các vấn đề tư bản, thông thương, các khái niệm về ngân hàng như trái phím, hối phiếu, séc, khái niệm về công ty, về mậu dịch. - Thời gian tồn tại: 9 tháng. Vì bị Pháp phát hiện và đàn áp. Ngọn đuốc 9 tháng soi vào sự tăm tối của nhân dân, gióng một tiếng chuông làm thức tỉnh lương tri, ý thức tự cường, nỗi đau mất nước. Bên cạnh đó, lần đầu tiên trong lịch sử nghề kinh doan buôn báo được đề cao như một công cụ để vươn lên, tranh đùa cùng các cường quốc.
“Ta vốn điềm đạm, pháp trực, không ưa chỗ náo nhiệt, thấy vận nước gian nan, tài mình thô sơ, vẫn chỉ thủ tuyết ở nhà dạy học.” – Cụ Lương
“Và trường Đông Kinh Nghĩa Thục chính là thành công từ các cuộc hội đàm giữa những con người tâm huyết vì vận mệnh đất nước. Những chí sĩ yêu nước nhận định muốn đấu tranh trước hết phải nâng cao trình độ của người dân, khai hóa văn minh, xây dựng kinh tế đất nước, dần dần giáo dục tinh thần tự cwongf, lòng yêu nước. Và làm được việc khai dân trí thì chỉ có thể lựa chọn một công cụ giáo dục là đắc sách nhất.”
Lương Văn Can học từ đâu? “Tôi nghĩ, ngoại viên và tự cường phải đồng tiến hành mới nên.” => Thoát Việt luận (thoát khỏi tư duy lý luận của Việt Nam)…hehe. Những tư tưởng nhân đạo, dân quyền, tự do, bình đẳng của Cách mạng Pháp như mở ra trong cụ một con đường mới
II. Đạo kinh doanh của người Việt. Các dẫn chứng về việc Việt Nam bắt đầu coi trọng kinh doanh 1. Những mỹ từ dành cho việc làm kinh doanh: con buôn, đầu đường xó chợ. 2. Nhận thức của Lương Văn Can: việc buôn bán thịnh suy có quan hệ đến quốc-dân thịnh suy, ta há nên coi thường, xem khinh được sao? 3. Quyển sách đầu tiên về kinh doanh được cụ Lương Văn Căn viết: thương học phương châm. 4. Công thương là “Cứu quốc đoàn”, cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân. 5. Hồ Chủ Tịch viết một bức thư ngắn gửi các doanh nhân 6. Ra đời luật công ty 1990, Luật doanh nghiệp 2000, ngày doanh nhân VN 13/10, nghị quyết đại hội Đang lần thứ X (Đảng viên được làm kinh tế tư nhân)
“Cổ nhân thường kinh sự buôn là mạt nghệ, bởi vì người đời xưa trọng đạo đức mà khinh công-lợi, thấy người buôn tham lợi vô yếm, ít có nói thực, sợ mất cái lòng đạo đức đi, vả lại đời xưa thủy bộ giao thông chưa tiện lợi lắm, tin tức chậm chạp, vận tải gian nan, buôn bán không được lợi lắm, cho nên thường khinh bỉ mà ít người chịu làm.” – Cụ Lương Văn Can
“Cả kho tàng văn hóa truyền thống (ví dụ như kho tảng truyện cổ tích Việt Nam) phong phú là vậy chỉ có hai câu chuyện Mụ Lường và Đồng tiền Vạn lịch đề cập chuyện buôn bán và chỉ nói cái xấu xa, lươn lẹo, giả trá của nghề buôn và người buôn.” – Nhà sử học Dương Trung Quốc Câu nói “buôn gian, bán lận” đã “đóng đinh” cho hình tượng của những người làm nghề buôn bán suốt một thời gian dài.
III. Cái “lõi” của “thương đạo” là PHỤNG SỰ XÃ HỘI, xung quanh lõi có 8 yếu tố cấu thành văn hóa doanh nhân “đạo” hiểu là triết lý, thương đạo tức là triết lý làm ăn, triết lý kinh doanh. Đạo của kinh doanh là PHỤNG SỰ XÃ HỘI. (xã hội hiểu rộng ra là toàn cầu). 8 yếu tố cấu thành “đạo” 1. Sự ảnh hưởng của VHDN thế giới 2. Chiều dài lịch sử nghề kinh doanh, buôn bán. 3. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước VN về doanh nhân và kinh doanh 4. Sự chi phối của văn hóa dân tộc VN 5. Hoạt động thực chất của các hiệp hội, các hội, các CLB doanh nhân, doanh nghiệp 6. Vai trò của tổ chức giáo dục và đào tạo kinh doanh trên cả nước 7. Vai trò của các cơ quan chính quyền, các tổ chức phi chính phủ có liên quan tới hoạt động của doanh nhân và doanh nghiệp 8. Cách nhìn của giới văn sĩ, điện ảnh, truyền thông đại chúng… đối với doanh nhân
IV. Những gương mặt rạng danh thương giới Việt thời này. Trương Văn Bền: là người Việt đầu tiên lập ra hai nhà máy xay lúa công suất trên 100 tấn gạo / ngày. Ông được mệnh danh là nhà sáng lập, chủ tịch của hiệp hội kinh tế ở Nam Kỳ và Đông Dương Bạch Thái Bưởi: “ông vua đường thủy” (1874-1932), người đã từng kinh doanh rất thành công ngành vận tải đường biển, song. Những con tàu của Bạch Thái Bưởi mang những cái tên rất Việt Nam going buồm sánh vai cùng các tàu buôn lớn của thế giới giữa đại dương, đã từng là niềm tự hào của đồng bào ta.
V. Những lý do khiến Lương Văn Cán viết cuốn sách đầu tiên của Việt Nam về việc kinh doanh, giao thương buôn báo: - Rất nhiều nhà buôn, nhà sản xuất trong thời gian hành nghề phải đóng cửa. Mô hình kinh doanh ở VN vẫn nhỏ lẻ, mang tính tự phát và chưa cạnh tranh được với tư bản nước ngoài - Những tấm gương doanh nhân Việt thành công đếm trên đầu ngón tay, rất hiếm hoi, và họ cũng chịu áp lực rất lớn từ các nhà từ bản Pháp (đang cai trị). Không có nhiều doanh nhân thực sự có thể cạnh tranh với người Pháp. - Những “chiêu thức” được lưu truyền bằng miệng hoặc là cha truyền con nối khiến nhiều người đến với nghề bằng cách mò mẫm, gập ghềnh. - 8 năm buôn bán ở xứ người Campuchia trong thời gian bị giam lỏng. - Và 1 câu hỏi: một nghề còn trứng nước như nghề buôn, đào đâu ra những thầy dạy, sách hay để đọc?
Và cuốn sách giáo khoa đầu tiên cho thương giới, do một người Việt biên soạn ra: THƯƠNG HỌC PHƯƠNG CHÂM. (Xuất bản đầu tiên 1000 cuốn, tháng 2 năm 2928) Cuốn sách có các mục: Tựa, tư bản, tổ chức sự buôn, tính toán, sổ sách, thư từ, mua hàng, thương hiệu, thương tiêu, thương địa, thương điếm, bày hàng, quảng cáo, giao tế tiếp dẫn, điều lệ nhà băng, sự buôn báo ở nước ta. Nhìn vào các mục trên cũng giúp ta hình dung một cuốn sách tương đối có hệ thống dành cho những người làm nghề kinh doanh, buôn bán. Cuốn sách không chỉ nhằm mục đích đề cao vai trò của thương mại mà còn phân tích rất thấu đáo những hạn chế của người Việt trong lĩnh vực buôn bán. Theo Lương Văn Can, thương giới Việt có 10 nhược điểm. 1. Không có thương phẩm. 2. Không có thương hội. 3. Không có tin thực. 4. Không có kiên tâm (người các nước văn minh chuyên làm nghề gì thì làm tới cùng) 5. Không có nghị lực (người ta bán vượt nước, mình bán vượt miền) 6. Không biết trọng nghề (nghề gì cũng quý cả, nhưng cái thông bịnh thời này ai cũng hám làm quan to lớn) 7. Không có thương học (người ta dạy ra làm nghề buôn, mình dạy ra để tim một “ghế” cho xong. 8. Kém đường giao thiệp. (cách nói năng, hiểu văn hóa nước bạn) 9. Không biết tiết kiệm 10. Khinh nội hóa. (sính ngoại, dùng hàng ngoại) 10 cái nhược điểm trên là cái bịnh rất lớn làm cho các nhà buôn ta bó buộc vào đất eo hẹp mà không có đường mở mang, xa hãm vào cái cảnh thua sút mà không có cơ phát đạt được.
VI. Triết lý hành nghệ (đạo) kinh doanh mà cụ Lương Văn Can muốn chia sẻ. 1. Phải hiểu được ý nghĩa của việc kinh doanh Bán gạo đổ thêm nước, bán muối trộn thêm vôi, bán sơn pha thêm dầu… ắt muộn cũng héo. Tham lợi sẽ nảy sinh những mánh trá, gây thiệt tới người tiêu dùng. Như vậy Kinh doanh là phụng sự xã hội. 2. Nguồn gốc của cải phải minh bạch Tức là những gì thu về từ việc buôn bán phải chính đáng. 3. Cần kiệm là cái đạo lớn của người kinh doanh. 4. Sử dụng đồng tiền như thế nào? So với bối cảnh ngày nay, những tư tưởng của Lương Văn Can không phải là “hạn hẹp” hay đã bị lạc hâu. Như chúng tôi đã đề cập tới, để hiểu đúng nhất về các tư tưởng này cần phải đặt nó vào đúng BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI. Vào cái thời kỳ tranh tối tranh sáng của xã hội thuộc địa, khi sự giao thoa của hai luồng tư tưởng mới và cũ rất phức tạp, khi mà những quan niệm khinh thương còn chưa thực sự bị rũ bỏ trong suy nghĩ của người dân Việt, thì những tư tưởng của cụ Lương quả là một sự đột phá, quả là một tư tưởng có tính cách mạng.
- Lương Văn Can - Nhà trí thức yêu nước – Nhà giáo giàu tâm huyết – Nhà kinh doanh có đạo.
This entire review has been hidden because of spoilers.
Một tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê, viết về phong trào duy tân đầu tiên ở Việt Nam vào những năm đầu thế kỉ 20.
Mặc dù phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục này không đi tới thành công, nhưng tầm ảnh hướng rất lớn, và "Nghĩa Thục chỉ thọ một năm mà tên Nghĩa Thục được ghi trên sử".
Vẫn những ngôn từ bình dị mộc mạc và đôi phần dí dỏm, người đọc sẽ không khỏi bật cười trước những mô tả của Nguyễn Hiến Lê về các cụ thời bấy giờ:
Cụ Cao Xuân Dục "hồi làm Tuần phủ Sơn Tây, cự nhau với viên Công sứ về vấn đề thuế má, viên công sứ giận giơ ba toong lên, cụ cũng xách ngay ghế định phang lại. Viên công sứ nén giận, tỏ vẻ hòa nhã, và xét lại vấn đề."
Hay như cụ Võ Hoành có tính tình ngang tàng, "đến như ngày lễ Cách mạng Pháp (14 tháng 7 d.l.) lính bảo treo cờ tam tài, cụ ừ ừ rồi bảo con gái thượng ngay một chiếc quần móc trên đầu sào gần cửa, thì quả thực đầu cụ là đầu "sọ gáo"."
Rồi trong lúc làm ăn để kiếm kinh phí trang trải cho phong trào, "có cụ bệ vệ quá, khách hàng không dám lại gần", "có cụ lại đa tình, không nỡ đòi tiền người đẹp."
Xuất thân từ nền Hán học, nên lúc dạy "các nhà nho thì cứ tùy hứng". "Lối dạy học đó không hợp khoa sư phạm chút nào nhưng có lẽ hợp với thời đó nhất, với mục đích của trường nhất, vì các cụ không cần đào tạo các ông tú, ông cử, ông phán, ông thông, mà chỉ muốn mở cái óc mê muội, muốn gõ những tiếng chuông duy tân, muốn gây một thế hệ cách mạng trong quần chúng "Bách niên chi kế mạc như thụ nhân", các cụ muốn làm cái việc "thụ nhân" đó để lo cái "kế bách niên" kia. Chính nhờ vậy mà học sinh mới hăng hái nghe và phong trào mới có ảnh hưởng lớn."
Và "nghe nói đến Đông Kinh Nghĩa Thục, người Việt nào cũng ngưỡng mộ, kính phục những nhà cựu học đã gây nên phong trào duy tân đầu tiên ở nước nhà. Bị un đúc trong cái lò thi phú mà các cụ có đầu óc mới mẻ như vậy, quả thực là siêu quần."
Nghĩa Thục chỉ thọ khoảng một năm mà tên Nghĩa Thục được ghi trên sử, với hầu hết những bậc tuấn tú, nhiệt tâm, chí khí nhất trong nước tức cái tinh hoa của non sông đã tụ họp nhau ở nhà số 4 phố Hàng Đào của cụ Lương Văn Can để nắm tay nhau mà cải tạo non sông.