“TÊN LÍNH ĐỨNG THỞ một hồi nữa rồi mới thuật lại rằng một võ sĩ trông rất mạnh mẽ, dữ tợn, phi ngựa qua cổng phủ và ném xuống đó một cái xác người chết. Phân phủ và phân suất vội vàng theo linh ra cổng Một người trần truồng nằm sấp ở giữa đường, ngay bên cấu treo. Phân suất củi xuống lật ngửa cái thấy lên thì thấy một con dao sáng loáng cắm trúng chỗ trái tim. Thốt nhiên phân phủ thét lớn:
Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, sinh năm 1896, tại Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông là con trai của tuần phủ Trần Thế Mỹ. Khái Hưng được học chữ nho từ thuở nhỏ, sau này theo Tây học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đậu tú tài Pháp, ban triết, Khái Hưng dậy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh (bởi vậy mới có bút danh Nhị Linh). Khái Hưng kết hôn với bà Lê Thị Hoà (con tổng đốc Lê Văn Đính) bút hiệu Nhã Khanh. Gia đình Khái Hưng không có con, Nhất Linh cho con trai là Nguyễn Tường Triệu làm con nuôi từ nhỏ. Khái Hưng viết cho Phong hoá, từ khi tờ báo còn do Phạm Hữu Ninh hiệu trưởng Thăng Long chủ trương. Năm 1932, Nhất Linh mua lại Phong hoá. 1933, thành lập Tự Lực văn đoàn. 1933, xuất bản Hồn bướm mơ tiên. 1936, Phong Hoá bị đóng cửa. Ngày Nay, đã ra từ trước, tiếp tục. Giống như các tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề cao tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến, ít nhiều mang tính cải cách xã hội. Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch, thường chỉ một hồi, nhưng ít được công diễn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn được nhiều thanh niên thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cũng là một dịch giả. Trong thời gian xảy ra chiến tranh thế giới thứ hai, giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị. Do tham gia Đại Việt dân chính Đảng thân Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau Cách mạng tháng Tám, Khái Hưng có viết một loạt bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn trên các báo của Việt Nam Quốc dân Đảng. Khái Hưng mất năm 1947. Có thông tin cho rằng Khái Hưng bị Đảng cộng sản thủ tiêu tại bến đò Cựa Gà, Xuân Trường, Nam Định.
Đây chắc là cuốn Tự lực văn đoàn mình thích nhất cho đến thời điểm này. Một cuốn truyện lịch sử "phản Tây (Sơn) phục Lê" xen lẫn yếu tố kiếm hiệp, rồi thì âm mưu, kế sách này nọ, đọc cuốn không dừng. Đọc sẽ thấy phảng phất bóng dáng của Hoàng Lê nhất thống chí, chắc Khái Hưng cũng chịu ảnh hưởng. Ngôn ngữ đủ hiện đại để không quá cổ (mất đi tinh thần văn học tân thời), và cũng lại đủ cổ để không quá hiện đại (mất đi tính cổ trang). Phông màn bối cảnh và không khí thời đại được Khái Hưng dựng rất khá. Đến độ 2/3 thì truyện rẽ quặt theo một hướng hoàn toàn khác. Đang từ truyện lịch sử chuyển sang truyện yêu đương lãng mạn, ngập tràn thơ văn bay bổng. Sự bẻ lái này hẳn khiến đại đa số độc giả bất bình, nhưng cũng ít nhiều hiểu được điều này. Phải thế thì mới truyền tải được tinh thần lãng mạn chủ nghĩa của nhóm Tự lực chứ: đặt tình cảm cao hơn lý trí, đặt con tim cao hơn sứ mệnh.
“Người ấy đã bao phen xông pha trong rừng gươm đao, nay chỉ còn là một kẻ tầm thường không còn một chút nghị lực để phấn đấu. Vì người ấy yêu."
Thêm lý do đáng thông cảm nữa là truyện này dựa trên sự kiện và con người có thật, mình khá bất ngờ về điều này. Quả thật có một tráng sĩ và một nhà thơ Phạm Thái như thế. Quả thật có một tình yêu "Sơ kính tân trang" như thế.
(Cái thằng cha Lê Báo đúng ăn hại thật, báo như cái tên. Thích cặp "rationalist" Phạm Quang Ngọc và Nhị Nương - một đôi trai gái toàn tài, hết mình về đại cục, tạm gác bỏ chuyện ái tình, thật tương phản với "romanticist" Phạm Thái).
Sách khá là hay, tiểu thuyết mang hơi hướng lịch sử và võ hiệp. Cuốn sách duy nhất trong Việt Nam Danh Tác của Nhã Nam viết về thời phong kiến. Kết hơi hụt hẫng, ở mức hay chứ chưa được gọi là đặc sắc
Câu truyện sống động, nhưng kết thúc truyện hơi bị hụt, nên mặc dù đây là cuốn truyện dài nhất của Khái Hưng nhưng về kết cấu thì không được tròn như những truyện khác.
Tình yêu xen lẫn tình yêu nước, trong bối cảnh xã hội tranh đấu quyền lực giữa: Phe còn sót lại của nhà Lê - Phe Quang Trung - Phe Nguyễn Ánh. Đọc khá thú vị!
Câu chuyện được đặt trong những năm tháng loạn lạc cuối triều Tây Sơn (1778-1802). Giữa cảnh mây mù khói bụi, binh đao khói lửa, lại xuất hiện một phe phái đang âm thầm rong ruổi kiếm tìm những tinh túy tàn tạ của Lê triều ngày trước.
Họ là ai? Là một Phạm Thái văn võ song toàn, lắm tài nhiều tật. Là một Lê Báo xốc nổi hiếu thắng, tính nóng như lửa, sức vóc hơn người. Là kỳ nữ Nhị Nương tính tình mạnh mẽ dứt khoát, lại khéo léo tinh khôn, là bậc hiệp nữ hiếm có trên đời. Là một Quang Ngọc đa mưu túc trí, thông minh lanh lợi, luôn ôm hoài bão đền nợ nước, trả thù nhà.
Huynh đệ tứ phía tụ họp dưới màu cờ đảng Tiêu Sơn, cùng kết nghĩa vườn đào, cắt máu ăn thề rằng một mai sẽ giành lại cơ đồ về tay họ Lê. Nhưng chấn hưng nghiệp bá há phải chuyện cỏn con? Nhớ năm xưa anh em Trương Quan Lưu mưu đồ khôi phục Hán triều bất thành, huynh đệ mỗi người một ngả, dẫn đến âm dương cách biệt. Còn nay huynh đệ Tiêu Sơn liệu có quy được giang sơn Đại Việt về một mối? Hay tai ương sẽ lặp một vòng luân hồi mới? Kết cục của họ ra sao, thịnh hay suy, thành hay bại, thì hỡi ôi, đã có lịch sử an bài, đã có hậu thế chứng giám. Chỉ có nỗi luyến tiếc những anh tài hào kiệt ngày ấy là mãi chưa chịu buông!