Lều Chõng không chỉ là chuyện văn chương, chữ nghĩa. Lều chõng còn gắn bó mật thiết đến vận mệnh đại sự của quốc gia, đến sự tồn vong, hưng thịnh của đất nước. Lều Chõng là tiểu thuyết phóng sự chất tiểu thuyết của Lều Chõng thể hiện từ cốt truyện với hệ thống các nhân vật có tâm lý, tính cách cụ thể, được xây dựng thành những hình tượng và các chân dung điển hình. Chất phóng sự trong Lều Chõng biểu hiện bằng nghệ thuật xử lý tinh tế, có tính thời sự cao, phản ánh chân thành, cụ thể các sự việc có thực diễn ra phong phú trong hệ thống thi cử thời xưa. Đề cập đến chủ đề rất lớn thuộc quá khứ, Lều Chõng có công làm cho nước ta thành một nước có văn hóa, rồi chính nó đã đưa đất nước đến cõi diệt vong. Lều Chõng đã triển khai sâu rộng việc chẩn trị trọng bệnh quốc gia là nạn cử nghiệp đã hành hạ và tàn phá cơ thể xã hội trong thời gian rất dài.
Ngô Tất Tố (1894-1954), người làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954.
Ngô Tất được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam trước 1945 với các tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình.Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) từng khen ngợi Tắt đèn là "một tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy". Phong Lê, trên Tạp chí Sông Hương tháng 12 năm 2003, gọi những tác phẩm viết về nông thôn của Ngô Tất Tố là "một nhận thức toàn diện và sâu sắc, đầy trăn trở và xúc động về cảnh ngộ và số phận người nông dân Việt Nam" đạt đến "sự xúc động sâu xa và bền vững"Ấn tượng bao trùm về Tắt đèn là một bức tranh đời sống sắc sảo, góc cạnh và chi tiết trên tất cả mọi chân dung và đối thoại, không trừ ai, trong số mấy chục nhân vật có tên hoặc không tên, xoay quanh một hình tượng trung tâm là chị Dậu. Nhịp điệu của Tắt đèn là một hơi văn mạnh mẽ và rắn rỏi từ đầu đến cuối.Từ một góc nhìn khác, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, trong bài Ngô Tất Tố và một cách thích ứng trước thời cuộc trích từ cuốn Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2005), viết Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết "rất xúc động" khiến người đọc có thể "nhiều phen ứa nước mắt". Còn thiên phóng sự Việc làng được coi là một trong những tác phẩm báo chí toàn diện và chi tiết nhất về bộ mặt nông thôn Việt Nam trước năm 1945. Phong Lê, trong bài đã dẫn, cho rằng Việc làng phản ánh "tận chiều sâu những cội rễ của cả hai mặt phong tục và hủ tục, nó tồn tại dai dẳng đến thế, không chỉ đến thời Ngô Tất Tố viết Việc làng, mà cả cho đến hôm nay".
Ngô Tất Tố là một nhà nho lão thành, thấm sâu nền văn hóa cũ, từng mang lều chõng đi thi, từng đỗ đạt. Trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng (1913-1984), có thời gian cùng làm việc với Ngô Tất Tố, từng kể lại là ở ông có chất thầy đồ cổ lỗ đến như thế nào. Tuy nhiên, Ngô Tất Tố không hoàn toàn là một người lạc hậu, nhất là trong những tác phẩm của ông. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận xét: "Trong khi về mặt tính cách, người ta thấy Ngô Tất Tố gắn liền với lớp người trưởng thành từ đầu thế kỷ (thế kỷ 20) (những Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Duy Tốn...) thì tác phẩm của ông lại thường được xếp cạnh tác phẩm Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng nghĩa là thuộc về một giai đoạn chín đẹp của thế kỷ này, những năm 30 huy hoàng".
Tính chất giao thời trong ngòi bút của Ngô Tất Tố thể hiện rõ nét trong tác phẩm Lều chõng. Tiểu thuyết này được đăng tải dần trên báo Thời vụ từ năm 1939 và sau đó được xuất bản thành sách năm 1941. Lều chõng ra đời trong bối cảnh đang dấy lên phong trào phục cổ, kêu gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ, những giá trị tinh thần
“Lều chõng” mang đến một cái nhìn chân thực về thi cử ở nước ta. Lúc mình đọc cuốn này cũng là 2k đang rục rịch kì thi THPT quốc gia. Đọc mới thấy nhiều thứ đến ngày nay vẫn còn. Kỳ vọng người nhà, các kì phúc hạch, các quan chấm thi bị “giam lỏng”, rọc phách,... có từ lâu đời rồi nhé, chứ không phải bây giờ mới chế ra đâu.
Truyện lấy bối cảnh thời Nguyễn, khi mà chế độ thi cử đã được thắt chặt hơn, ai nấy cũng ôm mộng bảng vàng, dù gần đất xa trời vẫn lều chõng đi thi. Mà chế độ thi cử thực sự khắc nghiệt, cổ hủ thật đấy. Nó nhất nhất tôn theo chế độ phân quyền, kiêng kị nghiêm khắc này nọ, tuyệt tôn trọng tuổi- sao lại có thể đánh trượt một người trẻ giỏi văn chỉ vì lý do sợ tuổi trẻ tài cao sẽ kiêu căng? Có thể gông tù người ta nếu nhỡ may phạm huý? Có thể đem một người chỉ giỏi văn làm tướng đánh giặc? Sống trong khuôn phép hà khắc, bảo thủ, bảo sao nước mình khổ dài dài!
Đúng như bác Tố nói, “cái lều chõng với VN không khác gì một ông tạo vật, đã chế tạo đủ các hạng người hữu dụng và vô dụng. Chính nó làm cho VN trở nên một đất nước có văn hoá nhưng cũng đưa VN đến thời kì dài với nhiều cảnh tượng kì quái, có thể khiến cho người ta phải cười, phải khóc, phải rùng rợn hồi hộp”.
Bàn về lều chõng còn nhiều thứ phải bàn lắm, nhưng một thứ khiến mình suy nghĩ:100 năm nhìn lại ai cũng cười vì cái nhìn nhất nhất phải có tên trên bảng vàng của nhà nho xưa, vậy 100 năm nữa, con cháu có chăng phì cười vì cách nghĩ phải vào đại học cho bằng được của người thời nay không nhỉ?
Mình từng dành thời gian tìm hiểu về truyền thống khoa bảng thời phong kiến: gồm những khóa thi nào, thi những cái gì, hệ thống học vị ra sao, tình trạng gian lận và cuộc đời của một số vị học sĩ nổi tiếng. "Vũ trung tùy bút" cung cấp khá nhiều thông tin thú vị về đề tài này. Nhưng đến "Lều chõng", mình mới thực sự cảm nhận rõ sự gian nan lẫn sung sướng, nước mắt lẫn vinh quang trong cuộc đời của các nho sinh Khổng học.
Trong khuôn khổ của cuốn "tiểu thuyết phóng sự" không quá dài này, cụ Ngô Tất Tố tái hiện quá thành công không khí thi cử và cuộc sống xưa. Từ những ngày khuân lều vác chõng thi hương dưới cơn mưa phùn gió bấc, những ngày vượt núi băng đèo trẩy kinh thi hội, thi đình, cho tới ngày vinh quy bái tổ của một ông nghè. Không chỉ có vậy, những buổi đàm văn, cảnh đám cưới, thú chơi hát ả đào,... đều được tác giả miêu tả sinh động. Đọc xong rồi mà đầu óc mình vẫn hiện rõ hình ảnh ông cụ già quyết "chết cũng phải thi", hình ảnh sĩ tử bì bõm làm bài trong bùn đất và đặc biệt là các điều luật thi đáng sợ (Nhất là kị húy). Chân thực đến run người. Bụng bảo dạ, may quá mình không phải sống và thi cử ở cái thời đấy.
Về mặt phóng sự, Ngô Tất Tố trình bày đầy đủ thông tin; về mặt tiểu thuyết, tác giả cũng xây dựng một cốt truyện dù đơn giản nhưng mạch lạc, chứa đầy tình tiết bất ngờ và cũng không kém phần hài hước. Văn phong vừa mang dấu ấn thông tục, chân phương của người nhà quê, vừa không kém trang trọng, lịch thiệp của người có học.
Tóm lại, đây là một tác phẩm nên đọc, và càng nên đọc lại, nếu muốn lãng du về cuộc sống vốn cắm rễ cả ngàn năm ở đất Việt, chỉ mới chấm dứt cách nay chừng một thế kỷ - năm 1919, khoa thi cử phong kiến cuối cùng của nước ta.
Kể ra thi cử thời xưa cũng không khác thi cử thời nay là bao, từ việc tổ chứ thi cử tập trung, với những quy định bảo mật nghiêm ngặt, rồi áp lực từ gia đình cũng như áp lực đồng trang lứa đè nặng lên vai sĩ tử ... Một tác phẩm cho ta một cái nhìn rất toàn diện và chân thực về việc thi cử thời phong kiến xưa. Khá là thú vị khi biết rằng cụ Ngô Tất Tố, một tác giả văn học hiện đại Việt Nam, cũng đã từng tham gia một trong những kỳ thi này. 5⭐️
Một tiểu thuyết thực sự đáng đọc của văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Mình luôn dành 1 tình cảm đặc biệt cho các tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn này vì thật sự có rất nhiều những trang tiểu thuyết được xếp vào hàng tuyệt bút. Lều chõng có thể coi là 1 tiểu thuyết liên quan đến giáo dục mà vấn đề chính là nạn khoa cử lỗi thời lạc hậu cùng những con người theo nghiệp bút nghiên "có tài nhưng bị hạn vận trường quy" đồng thời tiểu thuyết cũng cho thấy hình ảnh 1 số những nhà nho thực tài không chịu gò bó mình trong những khuôn mẫu phép tắc thi cử. Lều chõng là 1 bức tranh trào phúng cay đắng cái nạn khoa cử lỗi thời kìm hãm sự phát triển nền giáo dục của cả 1 quốc gia khi mà nó đặt ra quá nhiều quy tắc luật lệ vô lý và dường như câu "Học tài thi phận" trở nên đúng hơn bao giờ hết. Đọc rồi mới thấy thấu thơ Nguyễn Công Trứ qua bài ca ngất ngưởng. Và rồi cả 4 câu thơ của Nguyễn Công Trứ được ngân nga ở cuối tác phẩm là 1 điểm nhấn thật sự xuất sắc: "Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Giữa trời vách đá cheo leo, Ai mà chịu rét thì trèo với thông."
Cụ Ngô Tất Tố viết văn thì đương nhiên là hay rồi. Rất chi tiết , rạch ròi về quá trình thi cứ, chả khác gì đưa ra cả quy chế thi cho đời sau nắm được. Tuy thế mà cũng không nhàm chán.
Đối với mình thì đây là quyển hay nhất trong ba cuốn VNDT của cụ Ngô Tất Tố. Những tưởng đây là một cuốn bút kí, nhưng hoá ra là tiểu thuyết hẳn hoi. Thậm chí, thứ tiểu thuyết có những đoạn “page-turner” có thể cuốn người đọc phăng phăng theo mạch truyện. Đúng bốn lần trong truyện, bốn trường thi của anh chàng Vân Hạc, tác giả làm mình hồi hộp từng nhịp truyện với văn phong dù đơn giản nhưng bút pháp mô tả điệu nghệ lắm!
- Thi Hương thường có 3 hoặc 4 kỳ, gọi là 4 trường Thi qua 3 kỳ thì đỗ Tú tài (trước 1828 gọi là Sinh Đồ) - tên dân gian gọi là ông Đồ, ông Tú. Lần thứ nhất đỗ gọi là "ông Tú", lần thứ hai vẫn đỗ Tú tài thì gọi là "ông Kép", lần thứ 3 vẫn thế thì gọi là "ông Mền". Thi qua cả bốn kỳ thì đỗ Cử nhân (trước 1828 gọi là Hương cống) - ông Cống, ông Cử. Người đỗ đầu gọi là Giải nguyên.
- Thi Hội: Khoa thi này được gọi là "Hội thi cử nhân" hoặc "Hội thi cống sĩ" (các cử nhân, cống sĩ, tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội. Đỗ thi Hội có học vị Tiến sĩ (tên dân gian là ông Nghè) Người đỗ đầu gọi là Hội Nguyên
- Thi Đình: Người đỗ đầu gọi là Đình Nguyên Bậc 3: Đỗ Tiến sĩ Đệ Tam Giáp (Đồng tiến sĩ xuất thân - tên dân gian là ông Tiến sĩ) Bậc 2: Đỗ Tiến sĩ Đệ Nhị Giáp (Tiến sĩ xuất thân, Hoàng Giáp - ông Hoàng) Bậc 1: Đỗ Tiến sĩ Đệ Nhất Giáp (Tiến sĩ cập đệ - gồm 3 thí sinh đỗ cao nhất gọi là Tam khôi: Đỗ hạng ba là Thám Hoa (ông Thám), hạng nhì là Bảng Nhãn (ông Bảng), đỗ đầu là Trạng nguyên (ông Trạng)
"Thình lình nghĩ đến câu Kiều của mình bói được ngày trước, cô liền đọc cho chồng nghe. Vân Hạc lại cười và hỏi: - Mình có nhớ cái bài "nhàn ngâm" của cụ Nguyễn Công Trứ không? Cô ngơ ngẩn: - Bài ấy thế nào? Tôi chưa được nghe bao giờ. Vân Hạc gật gù đáp: - Bài ấy như vầy: "Ngồi rồi mà trách ông xanh, "Cơn vui muốn khóc, buồn tênh lại cười, Cô cướp nhời: - Thế thì tôi biết. Còn bốn câu nữa thế này. Và cô thỏ thẻ đọc tiếp: "Kiếp sau xin chớ làm người "Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. "Giữa trời vách đá treo leo. "Ai mà chịu rét thì trèo với thông. Bấy giờ đêm đã canh ba, bốn bề không còn tiếng động. Vầng trăng vằng vặc nhòm vào cửa sổ, như cũng thèm sự tương đắc của cặp vợ chồng chung một tâm hồn."
This entire review has been hidden because of spoilers.
Tác phẩm của Ngô Tất Tố nói về việc thi cử thời xưa. Tuy nhận xét ngay đầu sách có nói việc tác giả muốn thông qua tác phẩm nói về vấn đề tiêu cực & ảnh hưởng của thi cử ngày xưa đã tác động tới nho sỹ cũng như người thân họ thời xưa nhiều như thế nào, nhưng các nhân thấy cuốn sách rất hay khi giới thiệu cho người thời kỳ hiện đại như bản thân mình có thể thấy rõ hơn phần nào hình ảnh thi cử của các nho sĩ ngày xưa, việc họ pải chuẩn bị, ám ảnh bởi thi cử ra sao.... nỗi vất vả khi pải đi thi vào ngày thời tiết không tốt cũng như lặn lội cả nghìn dặm tới kinh đô ứng thi..., qui trình thi cử ra sao, phải chú ý những lỗi gì khi đi thi....
Nhân tài từ đó mà ra, tội nợ cũng từ đó mà ra. Gãy gọn, mạch lạc, cảnh sĩ tử ứng thí chẳng thể nào sinh động hơn th���.
Cũng may cụ Ngô vài phen hỏng thi và cũng sớm nhận ra chân lý rằng vận nước nhà chẳng thể mong dựa vào Lều chõng. Nhưng nếu không có lều chõng thì cũng chẳng có một Ngô Tất Tố tài hoa đến vậy. Nếu học trò mà không được học Bình Ngô đại cáo thì quả thực là tiếc l���m thay.
Ngo Tat To has become one of my definite favorites now after this novel. Love his writing style so much. Love Leu Chong for not being too dark as other books of the author but still conveying same level of irony.
Nhìn vào tủ sách chỉ toàn các tác phẩm nước ngoài, tui quyết định "sính nội" và chạy ra nhà sách mua ngay một quyển kinh điển của Việt Nam. Nhưng mà chắc mọi người cũng biết cái kiểu mua thì nhiều mà đọc thì ít rồi, phải cả năm trời sau khi mua xong tui mới giở "Lều chõng" ra đọc. Và tui khá là hối hận khi không đọc sớm hơn, bởi vì tui không dừng đọc được !!
Khi đọc phần giới thiệu, nhà xuất bản đã chú thích rằng "Lều chõng" là một tiểu thuyết phóng sự. Theo như tui hiểu thì đây sẽ là một quyển sách tái hiện lại sự thật về một vấn đề nào đó, vậy nên tui khá là mong chờ được tiếp nhận kiến thức mới. Cảnh thi cử của các sĩ tử thời Nguyễn được miêu tả một cách sống động và thực tế đã làm cho tui không phải thất vọng.
Câu chuyện "Lều chõng" xoay quanh anh chàng Vân Hạc đến từ làng Vân Trình, là một sĩ tử vô cùng sáng dạ. Tuy bụng đầy chữ nghĩa, lại được cụ Bảng ưu ái, song anh ta vẫn hỏng thi mấy khoa liền. Người ta ngờ rằng lý do anh chàng thi mãi không đỗ là do văn chương có phần kiêu ngạo và khí thế hơn người, mà lại không biết tiết chế nên bị đánh hỏng. Nhưng theo quan điểm của tui thì thứ Vân Hạc đang thiếu ở đây là ý chí quyết tâm. Anh chàng tuy xuất sắc, nhưng lại không có chí làm quan, mà chỉ thi "cho có" để vui lòng người thân. Đối với một sĩ tử bình thường, khi ở trường thi, họ sẽ nghĩ đến những công danh lợi lộc, đến tương lai sáng ngời mà cố thi cho đỗ. Vân Hạc thì ngược lại, động lực cho sự thi đỗ của anh ta lại là "không để phụ lòng họ hàng, không để hoang phí cả trăm quan tiền của họ". Tất nhiên, đây là một đức tính tốt, nhưng chưa đủ để tạo nên phẩm chất của một ông Nghè tương lai.
Nhờ được se duyên, chàng Vân Hạc đã cưới cô Ngọc con gái ông Đồ về làm vợ. Cô Ngọc vừa đẹp người lại đảm đang, thế nên cậu chàng ưng lắm. Cô Ngọc có một ước mơ là được làm bà Thám bà Bảng, danh phận cao quý, oai hùng biết bao. Vậy nên để thực hiện được điều đó, bắt buộc Vân Hạc phải đỗ đầu khoa nguyên, trở thành ông Thám ông Bảng. Thế nhưng như tui đã nêu ra trước đó, động lực của Vân Hạc vô cùng "yếu", cộng thêm việc tác giả không hề nhắc gì đến việc anh chàng là một người hướng về vua hoặc về dân, nên dù có làm quan thật thì cũng sớm bị đào thải khỏi hệ thống quan lại mà thôi.
Điểm sáng của quyển sách nằm ở cái tài miêu tả của Ngô Tất Tố. Qua từng dòng chữ, hình ảnh trường thi như rõ mồn một trước mắt người đọc: vừa hỗn loạn, nhốn nháo, vừa căng thẳng, trật tự. Cảnh mà tui tâm đắc nhất có lẽ là lúc Vân Hạc tham dự Nhị trường trong thời tiết mưa gió lạnh lẽo:
"Càng về gần trưa, mưa càng dữ dội. Các rãnh trong vi đều thành luồng nước trắng xoá. Bong bóng nổi lên mặt nước lềnh bềnh. Một lát sau, nước dềnh lên khỏi mặt rãnh, nó tràn vào lều và lênh láng chảy qua gầm chõng.
Vân Hạc đương ngồi trên chõng, gục đầu vào chiếc yên gỗ, hý hoáy viết mấy câu thơ, chợt thấy cái chõng tự nhiên thấp xuống dần dần, rồi nó lún xuống đến sát mặt đất, bùn nước theo khe nan chõng phòi cả lên trên mặt chõng.
Cái gì mà lạ thế nhỉ?
Thì ra khu đất trường thi, mấy tháng trước đây, chỉ là những ruộng lúa mùa. Kì thi sắp tới, lúa cũng vừa chín. Sau khi lúa cắt hết rồi, người ta đem trâu cày lên và đập qua loa cho vỡ những tảng đất lớn. Rồi họ đánh thành từng luống như luống khoai sọ để cho học trò cắm lều lên trên…"
Phải nói là đọc cuốn vô cùng!! Mặc dù ngày thường tui tự nhận xét mình cũng không đến nỗi nào, nhưng cách mà tác giả chèn những câu thơ từ các danh sĩ thuở xưa làm cho tui cảm giác mình hoàn toàn ngu ngốc, mù chữ luôn. Vậy nên tui thực sự khâm phục các sĩ tử phải học thuộc toàn bộ những kiến thứ đó, và vận dụng để tạo ra những câu thơ, bài văn mới.
Nhưng mà có một điều mà tui không đồng ý, không phải là điểm trừ của quyển sách mà là của người tóm tắt câu chuyện. Khi tui đọc tóm tắt, người ta viết là cuối cùng cả hai vợ chồng nhận ra chốn quan trường rất nguy hiểm, và rằng họ không thuộc về nơi ấy. Nhưng mà vấn đề là cả hai vợ chồng đều chưa được đặt chân vào cái gọi là "chốn quan trường" đâu, mới chỉ tham gia vào kì thi chọn lọc mà thôi. Chính vì đọc tóm tắt trước, nên tui đã suy nghĩ là "Chắc nửa đầu quyển sách nói về kì thi, nửa sau nói về lúc Vân Hạc làm quan và phải đấu đá với những thế lực khác". Nhưng không, toàn bộ quyển sách đều nói về kì thi hết, và khi đọc tới gần cuối câu chuyện rồi, tui vẫn còn thắc mắc là "còn ít trang như vậy làm sao nêu ra vấn đề quan trường mà tóm tắt đã nói được?" Đọc đến cuối rồi tui mới phát hiện ra tóm tắt lừa mình, hoặc do mình tự hiểu sai. Vậy nên, tui chừa luôn, không đọc tóm tắt nữa.
Hôm nay tự nhiên có hứng viết review dài, cảm ơn bạn nào vẫn còn đọc đến đây <3
“Vợ chồng lấy nhau mới già một tháng, mà chồng đã đỗ, thiên hạ sẽ bảo mình không có công nuôi chồng đi học ngày nào. Ước gì anh ta hỏng vài khoa nữa, rồi sau hãy đỗ để mình nuôi hắn cho thiên hạ biết tay.” “Lều chõng” là cuốn tiểu thuyết về chế độ khoa cử Việt Nam với góc nhìn chân thực, vừa có tính phê phán, vừa có sự luyến tiếc của tác giả Ngô Tất Tố. Nội dung truyện xoay quanh sự thi cử của chàng Vân Hạc cùng các bạn, bên cạnh đó là những ngóng trông, kỳ vọng từ cô Ngọc vợ chàng. Tác giả mở đầu tiểu thuyết bằng ngòi bút phóng sự lành nghề khi miêu tả một buổi vinh quy bái tổ. Điểm giữa hình ảnh nghiêm trang cầu kỳ của buổi lễ long trọng là những chi tiết nhỏ, hài hước mà không quá lố của các nhân vật tham gia, như cách cô thiếu nữ loay hoay sao cho ra dáng bà Nghè hay cảnh dẹp đám đông đứng xem lê mà chắn cả đường. Từ đấy, truyện nhẹ nhàng chuyển trọng tâm sang hai nhân vật chính. Cô Ngọc hay chữ, lại con nhà gia giáo, đâm suốt ngày mơ tưởng đến cảnh có tấm chồng hưởng danh thi cử. Dù lo toan suy nghĩ cho chàng Vân Hạc nhưng cô vẫn cố giữ cho được cái hình ảnh dửng dưng trước mặt bè bạn. Chàng Vân Hạc thì văn hay, chữ tốt, thói đời ngạo nghễ, ấy vậy vẫn cố thi lấy cái danh chơ vợ nở mày nở mặt. Những nhân vật sỹ tử trong truyện không phải là những hình tượng thanh cao, toàn nét toàn tài, thay vào đó là những câu thanh niên tuổi ăn tuổi chơi. Ba địa điểm gặp nhau của các chàng chỉ có phòng trọ, trường thi, và quán hát cô đầu. Thi được cũng đi hát, thi hỏng cũng đi hát, đến anh đồ Nguyễn Khắc Mẫn đang bận dạy trò cũng quay sang trách bạn đi chơi không rủ mình. Thói nghiện nghe hát cô đầu của giới văn sỹ hài hước đến độ các ả đào ngóng tin xem ai có khả năng thủ khoa thì cố giữ lại chơi cho kỳ được để lấy làm lộc cho khách ở khóa thi năm sau. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh trường thi nhộn nhạo đủ tuổi tác, đủ loại người. Các sỹ tử tay xách nách mang đúng nghĩa đen đủ thứ đồ, từ lều chõng để trú lúc thi, cho đến giấy bút làm bài dù không tả thái quá nhưng cũng không khỏi làm người đọc phì cười. Ngòi bút phóng sự của nhà văn lại một lần nữa được thể hiện khi miêu tả thủ tục nghiêm trang của buổi thi. Bản thân cũng là một người đã đi thi hương, Ngô Tất Tố tả rõ lối viết chữ, lối hành văn một cách chi tiết. Người đọc dù không hiểu chữ Hán chữ Nho cũng cảm kích được sự tinh tế của người trí thức xưa. Thế nhưng hình ảnh này cũng không bị sa vào lối lý tưởng hóa để hoài niệm của các nhà văn cùng thời. Các thủ tục làm bài, nộp bài, chấm bài ngày càng được miêu tả cầu kỳ đến ấu trĩ, dù không hề bị thêm nếm tình tiết. những thủ tục đóng dấu cầu kỳ, những văn phạm ngày một dài dòng khó đoán đã làm khổ thí sinh, đến cách chấm bài cầu kỳ cũng đâm làm hỏng người thầy chấm bài. Bên cạnh đấy, chính nhân vật Vân Hạc cũng ý thức được sự xa thực tế của lối hành văn cũ. Ban đầu là những lời bình dí dỏm về những bức thư đậm chất văn nhưng chả liên quan gì đến ngoài đời của các bạn, sau là sự đối lập trong cảnh thi cử khó khăn. Mưa to làm lún hết lều chõng của các sỹ tử vì phải ngồi thi giữa ruộng, nhưng đề văn lại chỉ hỏi về những đạo lý ở tận đẩu tận đâu. Chính sự thi cử đã đưa đến nền văn hóa cho Việt Nam, nhưng lại cũng chính sự thi cử đã kéo tụt lùi nước ta lại, dẫn đến thảm trạng “học tài thi phận”. Nhịp truyện vừa phải, hội thoại tự nhiên, lối viết ấu trĩ nhưng lại rất thực, dí dỏm nhưng không trào phúng quá đà, “Lều chõng” là tác phẩm vừa làm người đọc giải trí, vừa làm người đọc phải suy ngẫm.
LỀU CHÕNG – Ngô Tất Tố Ngô Tất Tố không chỉ là một nhà văn, ông còn là một nhà báo với những kỹ năng làm nghề. Lều chõng là một tiểu thuyết nhưng cũng là một thiên phóng sự về hoạt động thi cử ngày xưa. Nhờ nó mà nước ta trở nên một nước văn hiến. Nhưng cũng vì nó mà nước ta trở nên tụt hậu rồi bị đô hộ. Thông qua cuốn sách, chúng ta như được trở lại với những hoạt động thi cử và cả một xã hội xoay quanh nó. Câu chuyện kể về một sĩ tử tên là Vân Hạc, mới ngoài 20 học giỏi và hào hoa vốn không màng danh lợi nhưng vì người vợ xinh đẹp mong muốn trở thành bà Thám, bà Bảng nên phải đi thi hết kỳ này đến kỳ khác trong nhiều năm trời. Vì “học tài, thi phận” mà chàng Vân Hạc mãi vẫn bị vinh quang lẩn tránh, thậm chí chàng còn suýt bị rơi vào vòng tù tội. Cuối cùng, ngay cả vợ chàng cũng nhận ra một điều, thà làm “cây thông đứng giữa trời mà reo” còn hơn quăng mình vào chốn nguy nan ấy. Ngày xưa, con đường duy nhất để thay đổi số mệnh nếu chẳng may sinh ra ngoài chốn cung đình là thi cử. Để tuyển chọn người tài cho đất nước, triều đình tổ chức 3 kỳ thi Hương, Hội, Đình. Phải qua kỳ thi Hương ở cấp tỉnh thì mới được đến các kỳ thi sau. Sau khi đỗ đủ 4 trường thi Hương thì sĩ tử sẽ lên kinh đô thi Hội, cũng gồm 4 kỳ thi nhỏ hơn. Nếu đỗ cả 4 sẽ được bằng tiến sĩ và vào kỳ thi Đình, được tổ chức ngay tại sân vua. Để tham gia những kỳ thi này, sĩ tử phải vượt rừng, băng núi, đi ròng rã mấy tháng trời mới tới được nơi thi. Ấy thế mà không phải ai cũng được đi thi. Để dự kỳ thi Hương, sĩ tử phải có tối thiểu 10 năm đèn sách. Chữ Hán khó đọc lại nhiều nghĩa. Mỗi năm, quy chế lại ra thêm danh sách các từ huý kỵ là tên vua và những người thân thiết của vua cả của nước ta và Trung Quốc rồi những địa danh, những từ xấu … Ai chẳng may không thuộc hết mà phạm vào thì có thể bị cấm thi, đi tù, thậm chí liên luỵ đến cả nhà, cả tổng hương xã cũng bị vạ lây. Ngày nay có bệnh thành tích thì ngày xưa có bệnh kỳ vọng. Họ hàng chung tiền biếu người đi thi, gia đình bán ruộng vườn là chuyện thường. Bố mẹ cưới vợ cho con cốt là có người chăm lo đèn sách. Có những người thi hỏng, học cho đến khi tuổi già, tóc bạc mà vẫn nuôi mộng đèn sách vẫn đi thi đến cho kỳ đỗ mới thôi. Trong trường thi thì cũng có đủ những âm mưu thủ đoạn, lừa lọc, dối trá, nhận hối lộ, đút lót, làm bài hộ… Thậm chí có người còn mang cả thuốc phiện vào thi để lấy cảm hứng sáng tác, chẳng khác một số ca sĩ ngày nay là mấy. Bằng bút pháp tả thực và lối viết phóng sự, Ngô Tất Tố cung cấp rất nhiều chi tiết và tư liệu cụ thể để những ai mong muốn nghiên cứu và tìm hiểu về thi cử ngày xưa, xứng đáng là một nguồn tư liệu lịch sử chính xác cho thế hệ sau. Mình đã nghe truyện này 2 lần trên Voiz, lần nào cũng ấn tượng về những chi tiết miêu tả hoạt động thi cử, hoạt động chấm thi, soát bài, phúc khảo… nhưng không thể nào nhớ được chi tiết. Cuối cùng lại phải lên đọc review rồi dựa theo mà điểm sách. Nếu không thì chẳng biết bao giờ mới làm, rồi lại quên lãng thì phí. Ngày 24/5/2024./.
Mới đầu đọc quyển sách này thật sự là chật vật vì có rất nhiều từ cổ, kiểu phải căng não ra cắt nghĩa từng tí một ấy =))) Nhưng mà càng đọc càng thấy đây quả là một câu chuyện rất thú vị, tái hiện rõ nét nhất không khí thi cử thời nhà Nguyễn. Lần đầu tiên mình biết những chuyện như rọc phách, giám khảo bị "giam" riêng biệt để chấm thi,... đã có từ hồi xưa xửa xừa xưa rồi. Thậm chí mình còn bị bất ngờ vì quy mô các vòng thi rất lớn và quy củ, luật lệ thì nghiêm ngặt còn hơn cả bây giờ, hơn nữa còn rất khốc liệt, có những người dành cả đời mình để đi thi, chỉ mong được một lần đỗ Thủ Khoa. Mà hồi xưa thi thố phải tự túc tất cả, mỗi cống sĩ tham gia đều tự cắp lều chõng đi thi, viết đến giữa trang lại phải đi lấy dấu "Nhật trung", rồi dấu "Giáp phùng", viết hết quyển phải tổng hợp các lỗi, đảm bảo không "Phạm húy" hay "Khiếm tỵ",... mới dám nộp lên trên. Một lần đi thi tưởng như lên đường đánh giặc vậy, tự mình lo liệu cắp theo đủ thứ đồ cồng kềnh, cả làng trong mong luôn chứ chẳng riêng gì dòng họ. Áp lực thi cử hồi đó cộng với sự vất vả của các sĩ tử đã cho mình hiểu hóa ra học sinh ngày nay vẫn còn sướng chán so với các cụ ngày xưa.
Vân Hạc chính là nhân vật đại diện cho mỗi người sĩ tử chúng ta. Anh tuổi trẻ tài cao, duy chỉ có cái tính ngông nghênh khiến anh hỏng thi Hương 1 lần, rồi năm sau thi lại thì hỏng nốt thi Đình cũng vì bất cẩn. Vân Hạc khiến chúng ta hiểu rằng có tài chưa chắc đã thành công nếu không nhờ vào rèn luyện và thêm cả chút may mắn. Tuy anh có chút tự cao là vậy, nhưng mình vẫn không ghét được nhân vật này vì suy cho cùng anh là một người rất có tài và trọng tình nghĩa, dù có lúc chán nản muốn bỏ thi, nhưng nghĩ đến cô vợ và gia đình hai bên đều trông cậy cả vào mình, anh lại quay ra vùi đầu vào sách vở để thi lại 1 lần nữa. Nếu có một nhân vật mà mình hơi không thích lắm thì đó là cô Ngọc - vợ của Vân Hạc. Tuy mối tình của hai người là do thầy mẹ sắp đặt, nhưng chỉ vì 1 lần cưới hụt ông Nghè Long mà giờ đây khi cưới Vân Hạc, dường như cô Ngọc cũng chỉ mơ tưởng đến ngày chồng đỗ đạt để mình được hưởng cái phước cô Thám cô Bảng, cốt để hơn thua với vợ của ông Nghè. Nhưng mà càng về sau thì tâm lý của cô Ngọc cũng dần biến chuyển, vì thương chồng suýt vì mình mà mất mạng nên cô cũng không nặng nề chuyện thi cử với chồng nữa.
Cái kết của câu chuyện theo mình thì có phần hơi nhanh nhưng cũng đủ trọn vẹn. Suy cho cùng thì học tài thi phận, đỗ đạt cao thì hưởng phúc, còn nếu không đỗ thì có thể làm lại từ đầu. Miễn sao ta hiểu rằng mình cần có trách nhiệm với chính sự học của bản thân.
Mình cũng mới tập tành đọc văn học Việt Nam dạo gần đây thôi, và mình đến với những tác giả từng xuất hiện trong sách giáo khoa ngữ văn trước cho thân thuộc và gần gũi. Tác phẩm "Lều chõng" của nhà văn Ngô Tất Tố thật sự không làm mình thất vọng. Trong suốt quyển tiểu thuyết, tác giả đã thông qua câu chuyện nhiều cung bậc thăng trầm để giới thiệu cho các độc giả về sự nghiệp thi cử triều Nguyễn. Vì chịu ảnh hưởng của phương Bắc, Việt Nam ta áp dụng chế độ khoa cử để tuyển chọn nhân tài hơn 800 năm. Nói thực lòng, vì ít tìm hiểu nên thực chất mình còn rành rẽ về chế độ khoa cử của... Trung Quốc hơn cả của ta, phần vì không có hứng thú, phần vì cũng không biết phải tìm tòi tài liệu ở đâu. May nhờ được đọc quyển tiểu thuyết này của Ngô Tất Tố, cuối cùng mình cũng đã hình dung được sự rắc rối, oái oăm của các học trò xưa. Từ việc cõng lều chõng đi, gặp mưa gió bão bùng, nào là đỗ kì thi Hương rồi phải trèo đèo lội suối lên tận kinh đô thi Hội, con đường đi bộ thời chưa khai phá sao mà lắm nguy hiểm và nhiều gian nan. Những nghi lễ vinh dự khi các ông Tiến sĩ được triều đình cho vinh quy cũng làm người ta mở mang tầm mắt. Trong kì thi nào thì cũng tồn tại việc gian lận, bác Ngô cũng đã giới thiệu cho chúng ta mấy pha gian lận thật là mạo hiểm của thí sinh thời đó. Tóm lại, chỉ thông qua việc thi cử của một vài người mà ta có thể thấy sự quan tâm của bà con họ hàng cả xa lẫn gần, đây là điều mà thời nay đã ít thấy. Đồng thời, việc thi đỗ hay thi hỏng của một vài người còn ảnh hưởng đến sự hưng vong của cả một dòng tộc. Theo mình, quyển tiểu thuyết này thật sự là một quyển tiểu thuyết đáng đọc, phù hợp với mọi lứa tuổi, có một lượng kiến thức vừa đủ, cốt truyện lên xuống phập phồng, các hành văn đơn giản dễ hiểu, ít lắt léo, mình sẽ tìm đọc thêm các tác phẩm khác của nhà văn Ngô Tất Tố.
Đọc xong mới thấy được việc thi cử hiện nay khó có thể so sánh được như ngày xưa được. Theo chân nhân vật chính là nho sĩ Đào Vân Hạc, ta cảm nhận một giai đoạn lịch sử trong thời gian đầu những năm 1900 một cách dễ đọc dễ cảm qua những sinh hoạt đời thời của nhân vật.
Mình cũng cảm nhận được Ngô Tất Tố là một người rất tôn trọng phụ nữ. Vợ của Đào Vân Hạc được miêu tả rất rõ ràng và được xây dựng rất tinh tế trong vai trò "hậu phương" với sự tận tụy và tần tảo của cô Ngọc ở mỗi đợt chuẩn bị cho chồng khăn gói lên đường khoa cử. Tuy nhiên, cô Ngọc cũng có những mong muốn riêng chứ không bị che lấp bởi chồng, thậm chí cỡ một phần tư cả quyển là về những người vợ, gia đình của các vị nho học xưa.
"Học tài, thi phận". Đào Vân Hạc hay Bùi Đốc Cung rõ ràng là người tài năng nhưng lại lận đận với việc thi cử. Con đường học hành của ông cha ta ngày xưa gian nan vất vả cỡ nào, công đèn sách mấy mươi năm có thể vì một hai con chữ "khiếm tỵ", "phạm húy" mà đổ sông đổ bể, hoặc có thể bị tù tội hay mất mạng bất cứ lúc nào. Khi giấc mộng bảng vàng đã khép lại, mình lại liên tưởng đến câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao" Mà trong tác phẩm, Ngô Tất Tố cũng kết thúc với một câu thơ khác của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Mình nghĩ đây là một tác phẩm đáng đọc và đặc biệt là dành cho các bạn học sinh lớp 12 đang cần tiếp thêm đọc lực cho kỳ thi cuối cấp quan trọng. Dù quy tắc thi khi xưa có phần rườm rà, gò bó, khắc nghiệt nhưng vẫn có nhiều quy chế vẫn được giữ lại cho đến hiện nay như rọc phách, phân bổ giám thị coi thi, giam lỏng cán bộ chấm thi, ... Và tác giả cũng gợi cho mình một suy nghĩ "Học cao đỗ đậu liệu có phải là may mắn hay không?"
This book is about the blinding path of a past corrupted educational system, one that dazzled the whole society with a false glory of an intrinsically worthless title. Cheating is prevalent, especially in lower-level exams, inconspicuously highlighting the weight of titles on the public. On the other hand, the officials and higher powers are less visible to readers; decrees come from unknown uncaring kings, especially unfair and casual, contrasting with the highly complex but threadbare rules and limits coercively understood by students and teachers alike. Again, this book was written in the waning era of Vietnam's last dynasty and the collapse of Sino study. Lều Chõng's episodic style owes much to its original means of publication: the newspaper. Each chapter has a structured designated function, rarely overflowing the Ngô Tất Tố's intentions over another, as if mirroring the system's rigidity itself. I give this a four because it sounds meandering at points.
Đây là cuốn truyện mình đọc xong cảm thấy khá phân vân trong việc đánh giá ! Về lối hành văn: tác giả miêu tả kĩ và rất chi tiết . Điều này khiến cho người đọc có thể hình dung rõ ràng về cuộc thi của thời phong kiến. Ngôn ngữ trung lập , không thêm bình , mang đến cảm giác chân thực nhất. Về nội dung, Truyện lấy bối cảnh khoa thi thời Nguyễn, đời vua Gia Long. Nhân vật tên Vân Hạc là người giỏi văn chữ, có tài năng xuất chúng , nhưng bị đánh hỏng kì thi Hương vì “trẻ tuổi”. Đến năm sau đỗ thủ khoa nhưng lại trượt kì thi Đình. Truyện mang đến hiểu biết thú vị về khoa cử, những lễ tiết cầu kì và cách thức tổ chức khoa cử thời xưa. Tuy nhiên mình thấy nhiều chỗ sẽ khá khó hiểu khi tác giả dùng nhiều câu thơ Hán . Mình nghĩ là nếu ai đó có kiến thức đủ lớn về chữ Hán sẽ cảm thấy sự thâm thuý , ý nghĩa của những câu thơ này.
Một cuốn tiểu thuyết mang giá trị lịch sử, hấp dẫn và kịch tính. Mọi thứ về cuộc thi thời xưa đều được miêu tả rất chi tiết trong cuốn này. Vì biết trc Vân Hạc học giỏi nhưng cuối cùng chẳng thành "cơm cháo gì", lại tiếc cho tài năng, tiếc cho kì vọng của gia đình, nhất là cô Ngoc vợ anh nên cứ đọc đến đoạn anh đi thi là mình lo nơm nớp, cứ sợ trượt vì phạm quy, nhất là đoạn làm hộ bài cho Đức Chính, chỉ sợ bị giám thị bắt...đến khi anh đc vào Huế thi rồi, tưởng chừng mình nhớ lầm thì anh bị bắt, bị phế thủ khoa đuổi về quê, cảm giác thật tiếc nuối, bẽ bàng nhưng lại xen lẫn mừng vui cảnh gia đình đoàn viên. Cụ Ngô Tất Tố thật khéo léo khi đưa một phần lịch sử thành một cuốn tiểu thuyết có nội dung rõ ràng, rành mạch, có sức hấp dẫn người đọc. Và mình tin, áng văn của cụ sẽ còn được lưu truyền đến mãi đời sau...
Cực kỳ xứng đáng với cái tên Việt Nam danh tác. Lều chõng của Ngô Tất Tố đã vẽ lên bức tranh toàn cảnh không chỉ về thi cử mà còn về xã hội Việt Nam những năm cuối cùng của triều đại phong kiến. Từ cảnh rước ông Nghè, hát ả đào, các thủ tục, điều kiêng kỵ và hành trình thi đều được tác giả mô tả rất chi tiết nhưng không hề nhàm chán. Không chỉ các thí sinh phải chịu cảnh khổ cực khi lội bùn đi thi, lấy thân mình che mưa cho bài thi khỏi ướt, đến những ông cụ già quyết thà chết trong khi thi chứ không bỏ bài. Kể cả các giám khảo đi chấm thi cũng bị coi sóc nghiêm khắc không khác các thí sinh, họ nhận đồng lương bèo bọt, bị cách ly trong 1 căn phòng, còn phải chịu phạt nếu có sơ sót trong việc chấm thi. Đọc để thấy một chế độ thi cử chú trọng văn chương đã ảnh hưởng đến xã hội ngày xưa như thế nào.
Thực sự là một cuốn sách đáng đọc. Thấm Đối với các tác phẩm thời xưa, trong nội dung luôn chứa đựng chiều sâu. Hành trình để trở thành người tài quá gian nan, rất đáng ngưỡng mộ. tuy nhiên, chính vì vậy mà có nhiều người tài đã bị lỡ đi cơ hội được cống hiến. Bên cạnh học tài, tôi cũng ấn tượng với tình cảm trong sáng, tình vợ chồng, dù chẳng phải trai gái yêu đương như xã hội hiện đại ngày nay nhưng để lại trong tôi ký ức, một đôi vợ chồng hiểu chuyện và thương nhau. Người chồng vì mong ước của vợ mà cố gắng, người vợ vì thương chồng chỉ cần chồng, không cần danh vọng địa vị nữa... Chỉ mong trong cuộc đời, cũng có được một tình vợ chồng thấu hiểu như vậy.
This entire review has been hidden because of spoilers.
Lều chõng - nghe thì không có xa lạ gì, nhưng mà đi vào chi tiết từng kỳ thi Hương, Đình, Hội, từng nỗi gian lao của sĩ tử trên đường dự thi cũng như muôn vạn tâm sự của người trong cuộc thì đọc cuốn này mới hiểu rõ hơn nữa. Ngoài chuyện học kiến thức đã gian nan, sĩ tử còn phải chịu áp lực từ những thứ râu ria như quy củ trường thi, trăm thứ quy định làm bài, rồi còn danh sách từ húy cần tránh... quả nhiên là không đơn giản. Mà không thi thì không có danh phận, đối với nam nhi trong thời đó thật là khó nói với xã hội và gia đình. Tác phẩm chỉ nói về hành trình của 1 anh sĩ tử mà mình nhìn thấy quá nhiều về xã hội.
Một tác phẩm hay mang đậm chất Ngô Tất Tố về khoa cử và thi thố gian nan thời phong kiến thoái trào khi mà Hán học đã tàn, nhân vật chính trong tiểu thuyết là Vân Hạc và Ngọc là vợ chồng của nhau. Vân Hạc thông minh học giỏi, dốc chí học hành để sớm ngày đỗ đạt, còn Ngọc luôn nuôi một ước mơ là trở thành bà Thám bà Bảng nên dốc hết công sức, chăm lo cho chồng ăn học đi thi. Nhưng rồi cả hai nhận ra chốn quan trường đầy rẫy những cám dỗ, hiểm nguy, nên họ thà làm một thường dân thì vẫn hơn để giữ được tấm lòng và tính cách thanh cao của mình
Khá thú vị. Đọc xong thì hình như được khá rõ ràng mấy vụ thi cử hồi xưa, lệ trước thi, lệ đi thi, lệ sau thi; các quan chấm thi, quy trình chấm thi, cách xét điểm, các lỗi phạm húy (phức tạp hơn mình tưởng..), rồi mấy cái như luật bất thành văn của mấy sĩ tử,... Nói chung một điều rút ra sau khi hoàn thành cuốn này là đừng so sánh thi hương, thi hội,.. với thi đại học nữa, không giống gì luôn á :333
“Lều Chõng” giúp chúng ta hiểu tỉ mỉ cảnh học tập, thi cử và những phong tục, quy chế thi thời phong kiến. Đọc sách mới thấy được cái vất vả của những người học trò thời đó, dù là trời mưa giông bão gió hay ngày dài tháng rộng, dù phải lội suối băng rừng, phải đối mặt với sự lao tù khi “phạm húy”. Đọc sách để có cái nhìn xuyên suốt quá khứ và hiện tại, để thấy rằng, việc sống chết để vào một trường đại học hiện nay cũng tương ứng như cái cách người người, nhà nhà “đầu tư” vào một sĩ tử đi thi ngày xưa.
Một cuốn sách hay nói về Hà Nội cũ. Chuyện thi cử, chuyện kì vọng, chuyện gian lận thời nào cũng có. Thế nhưng việc rèn luyện văn chương thì vẫn luôn là thứ cần phải được chú trọng.
Nếu như có vốn hiểu biết sâu rộng hơn về văn học, về kiến thức lịch sử thì sẽ cảm nhận trọn vẹn hơn. Với trình độ hiện tại của bản thân, có lẻ mới chỉ hiểu được 60% cái hay của quyển sách.
Ngô Tất Tố dẫn chúng ta đi hết một vòng chuyện thi cử đỗ đạt của các sĩ tử ngày trước. Xét ra thi cử thời nay còn dễ dàng hơn so với thời các cụ nhiều lắm rồi. Học cả đời chỉ để thi ra làm quan 🤷
Một thiên phóng sự xuất sắc cho những ai muốn tìm hiểu về khoa cử, chế độ giáo dục thời phong kiến mà ngại đọc sách chuyên khảo.
Ngoài ra, đọc để biết thêm ngày trước các cụ có nhiều từ dùng hay lắm: ăn chặp ăn chuội, tải mải, gàn quải, rấm (chuẩn bị trước kín đáo),...