Akutagawa Ryunosuke vụt qua trên nền trời văn học Nhật Bản như một ngôi sao băng, thật sáng nhưng cũng thật ngắn ngủi. Người ta trầm trồ ca ngợi tài năng ông và người ta thương tiếc cho số phận ông.
Tuy cuộc đời sáng tác của ông chỉ vỏn vẹn có mười lăm năm, nhưng ông đã để lại cho hậu thế một gia tài khá đồ sộ với khoảng ba trăm tác phẩm, trong đó hơn phân nửa là truyện ngắn, vô cùng phong phú về đề tài, về nội dung và rất đa dạng trong cách viết. Đó chính là cơ sở để người ta tôn ông làm bậc thầy của truyện ngắn. Phần văn nghiệp còn lại của ông là tùy bút, bình luận, bút ký, thơ, v.v…
Sau khi ông mất, năm 1935 một giải thưởng văn chương mang tên ông - Giải thưởng Akutagawa đã ra đời. Giải thưởng này rất có uy tín trong giới văn học Nhật Bản, từ khi ra đời cho đến nay luôn luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện những tài năng trẻ. Oe Kenzaburo, nhà văn đoạt giải thưởng văn chương Nobel năm 1994, lúc còn trẻ là người đã được trao giải thưởng Akutagawa.
Ông còn là một trong những tác giả Nhật Bản đã được thế giới biết tiếng. Và ở Việt Nam tác phẩm của ông đã được giới thiệu rất sớm qua phim ảnh và qua các bản dịch. Tuy vậy những tác phẩm của ông, dịch ra tiếng Việt đang được lưu hành trong nước hiện nay phần lớn không phải là những bản dịch trực tiếp từ tiếng Nhật mà qua những ngôn ngữ trung gian.
Trong chương trình thực hiện tuyển tập này chúng tôi đã chọn ba mươi tác phẩm tiêu biểu trải dài suốt cả cuộc đời viết văn của ông mà chúng tôi yêu thích, và dịch trực tiếp chúng từ nguyên tác tiếng Nhật. Chương trình làm việc này có chín người tham gia, tất cả đều là cựu sinh viên du học tại Nhật trong thập niên 1960 và hiện đang sinh sống ở nước ngoài. Các tác phẩm trong tuyển tập được sắp xếp theo thứ tự thời gian ra đời của nó. Mở đầu tuyển tập là tùy bút Nước dòng sông Cái (Okawa no mizu), tác phẩm đầu tay viết vào năm 1912 khi ông còn là một sinh viên tay trắng, và kết thúc với tác phẩm Ảo ảnh cuộc đời (Shinkiro) viết vào năm 1927, chỉ mấy tháng trước khi ông uống thuốc ngủ tự vẫn. Bên cạnh phần dịch thuật là hai bài biên khảo, một bài viết về xuất xứ của tác phẩm Sợi tơ nhện (Kumo no ito), một bài giới thiệu về thời đại, thân thế và sự nghiệp văn chương của ông.
Trong quá trình xuất bản tuyển tập này, chúng tôi xin cảm ơn những giúp đỡ tận tình của anh Trần Tiễn Cao Đăng, anh Nguyễn Cảnh Bình - Công ty sách Alpha và sự tận tụy làm việc của chị Hồ Thị Hòa. Nhân đây, chúng tôi xin cảm ơn tất cả bạn bè đã khuyến khích và thôi thúc chúng tôi hoàn tất tuyển tập.
Chúng tôi xin đón chờ những chỉ bảo vàng ngọc của quý độc giả để những lần xuất bản sau được tốt hơn.
Akutagawa Ryūnosuke (芥川 龍之介) was one of the first prewar Japanese writers to achieve a wide foreign readership, partly because of his technical virtuosity, partly because his work seemed to represent imaginative fiction as opposed to the mundane accounts of the I-novelists of the time, partly because of his brilliant joining of traditional material to a modern sensibility, and partly because of film director Kurosawa Akira's masterful adaptation of two of his short stories for the screen.
Akutagawa was born in the Kyōbashi district Tokyo as the eldest son of a dairy operator named Shinbara Toshizō and his wife Fuku. He was named "Ryūnosuke" ("Dragon Offshoot") because he was born in the Year of the Dragon, in the Month of the Dragon, on the Day of the Dragon, and at the Hour of the Dragon (8 a.m.). Seven months after Akutagawa's birth, his mother went insane and he was adopted by her older brother, taking the Akutagawa family name. Despite the shadow this experience cast over Akutagawa's life, he benefited from the traditional literary atmosphere of his uncle's home, located in what had been the "downtown" section of Edo.
At school Akutagawa was an outstanding student, excelling in the Chinese classics. He entered the First High School in 1910, striking up relationships with such classmates as Kikuchi Kan, Kume Masao, Yamamoto Yūzō, and Tsuchiya Bunmei. Immersing himself in Western literature, he increasingly came to look for meaning in art rather than in life. In 1913, he entered Tokyo Imperial University, majoring in English literature. The next year, Akutagawa and his former high school friends revived the journal Shinshichō (New Currents of Thought), publishing translations of William Butler Yeats and Anatole France along with original works of their own. Akutagawa published the story Rashōmon in the magazine Teikoku bungaku (Imperial Literature) in 1915. The story, which went largely unnoticed, grew out of the egoism Akutagawa confronted after experiencing disappointment in love. The same year, Akutagawa started going to the meetings held every Thursday at the house of Natsume Sōseki, and thereafter considered himself Sōseki's disciple.
The lapsed Shinshichō was revived yet again in 1916, and Sōseki lavished praise on Akutagawa's story Hana (The Nose) when it appeared in the first issue of that magazine. After graduating from Tokyo University, Akutagawa earned a reputation as a highly skilled stylist whose stories reinterpreted classical works and historical incidents from a distinctly modern standpoint. His overriding themes became the ugliness of human egoism and the value of art, themes that received expression in a number of brilliant, tightly organized short stories conventionally categorized as Edo-mono (stories set in the Edo period), ōchō-mono (stories set in the Heian period), Kirishitan-mono (stories dealing with premodern Christians in Japan), and kaika-mono (stories of the early Meiji period). The Edo-mono include Gesaku zanmai (A Life Devoted to Gesaku, 1917) and Kareno-shō (Gleanings from a Withered Field, 1918); the ōchō-mono are perhaps best represented by Jigoku hen (Hell Screen, 1918); the Kirishitan-mono include Hokōnin no shi (The Death of a Christian, 1918), and kaika-mono include Butōkai(The Ball, 1920).
Akutagawa married Tsukamoto Fumiko in 1918 and the following year left his post as English instructor at the naval academy in Yokosuka, becoming an employee of the Mainichi Shinbun. This period was a productive one, as has already been noted, and the success of stories like Mikan (Mandarin Oranges, 1919) and Aki (Autumn, 1920) prompted him to turn his attention increasingly to modern materials. This, along with the introspection occasioned by growing health and nervous problems, resulted in a series of autobiographically-based stories known as Yasukichi-mono, after the name of the main character. Works such as Daidōji Shinsuke no hansei(The Early Life of
Dạo này đọc xong cuốn truyện ngắn Trinh tiết của Akutagawa. Đây là tuyển tập được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật của chín dịch giả, đều là cựu sinh viên du học tại Nhật trong thập niên 1960 và hiện đang sinh sống ở nước ngoài, bao gồm 30 truyện tiêu biểu được chọn dịch trải dài suốt cả cuộc đời viết văn của Akutagawa.
Akutagawa hệt như một ngôi sao băng vụt sáng qua nền trời văn chương Nhật Bản, sáng rỡ nhưng thật ngắn ngủi biết bao. Cảm giác đọc văn ông như mang trong mình một tuyệt phẩm. Ông vay mượn cốt truyện cổ, tích của người khác trong nhiều sáng tác của mình nhưng phối lại theo một lối văn tinh tế, mượt mà, triết lí u hoài và thăm thẳm một nỗi niềm tuyệt vọng. Mình có cảm tưởng Akutagawa đã ghi nhớ trong lòng nhiều những ám ảnh nằm ngoài ý thức, những cơn mộng khiến ông không thể phân biệt mình đang ở trong mộng hay là thực tế. Càng về cuối tuyển tập càng nhận thấy sâu sắc điều đó. Một lối văn mới mẻ, ám ảnh, nhưng vẫn phảng phất nét u huyền rất Nhật.
Gauguin đã ly khai đời sống văn minh vật chất bằng cách tìm về vẻ đẹp mộc mạc, man dại nơi những cô nàng thổ dân trên đảo Tahiti. Còn Akutagawa với những ảo mộng (yume) suốt cuộc đời mình, đã ly khai cuộc đời bằng cái chết.
Biết làm gì với một tuyển tập hay như vậy? Chắc là phải đọc lại thêm lần nữa.
Bậc thầy về truyện ngắn. Miêu tả cái xấu về diện mạo về tâm hồn con người một cách rất... đẹp, tinh tế và sâu sắc. Lối kể chuyện cuốn hút. Cấu trúc truyện đặc sắc. Nhiều triết lý nhân sinh về cuộc đời.
mindblown. những câu chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng dưới tay viết bậc thầy đã trở thành tuyệt tác. classic của classic. kiểu văn chương này sẽ không bao giờ chết đi. năm trăm năm sau nó vẫn sẽ khuấy đảo con người, chắc chắn là vậy, bởi vì nó viết về con người một cách rất nguyên sơ, cái chất người hiện diện trong loài người từ khi sinh ra cho tới tận lúc chết mà dù có đặt ở bất cứ thời đại nào vẫn luôn tồn tại.
tuy không đọc nhiều về truyện ngắn nhưng đây là một tác phẩm hay đáng đọc với những câu chuyện mang nhiều hình tượng triết lí ẩn dụ mà không phải ai lần đầu tiên đọc cũng hiểu ngay ra được.
“Truyện của ông viết thực hay. Điền đạm, không đùa cợt, cứ kể tự nhiên mà làm cho người ta thấy buồn cười một cách nhẹ nhàng. Hơn nữa chất liệu dùng trong truyện lại rất mới mẻ. Văn từ gọn gàng, trình bày đầy đủ những điểm cần thiết. Tôi phục lắm. Cứ tiếp tục sống thêm độ hai ba mươi năm nữa thì ông sẽ trở thành một nhân tài hiếm có của văn đàn cho xem.” - Soseki không nói thế *cánh cụt*
Trong các tác giả Nhật Bản, mình cảm thấy phong cách kể của Akutagawa là nhẹ nhàng nhất rồi. Quả là một bậc thầy về truyện ngắn, cảm giác đọc tác phẩm của ông có phần vừa lạ vừa quen, cứ như là đang đọc một câu chuyện dân gian hay thần thoại gì đó vậy.