Nhà Văn MA VĂN KHÁNG • Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, người Kinh, Sinh ngày l tháng 12 năm 1936. Quê gốc: phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội Hiện ở quận Ba Đình, Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam (1974).
Vài nét về quá trình học tập, công tác :
Năm 1948: Đội viên Đội Truyền bá vệ sinh Cục Quân y.
1949: Học sinh Trường Thiếu Sinh Quân, Bộ Quốc Phòng.
1952-54: Học sinh Trường Sư pham Khu học xá Trung Ương (Nam Ninh - Quảng Tây- Trung Quốc).
1955-59: Hiệu trưởng Trường Cấp II Thị xã Lào Cai.
1960-63: Sinh Viên Đại học Sư Phạm Hà Nội.
1963: Hiệu trưởng Trường Phổ thông Cấp III Thị xã Lào Cai.
1968: Thư ký của Bí thư tỉnh ủy Lào Cai.
1970-76: Phó Tổng biên tập Báo Lào Cai- cơ quan của Tỉnh đảng bộ Lào Cai.
1976 : Chuyển công tác về Hà Nội. Biên tập viên, tiếp đó là Tổng Biên tập, Phó Giám đốc Nhà Xuất Bản Lao động - Tổng Liên đoàn Lao động VN.
Từ tháng 3- 1995 là Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Đảng đoàn Hội Nhà văn khoá V, Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài.
Từ tháng 4 năm 2000 là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam khóa VI. Chủ nhiệm Tạp chí Văn học nước ngoài.
Năm 2006 là Chủ tịch Hội Đồng Văn xuôi, Phó Giám đốc Trung Tâm Bồi dưỡng Viết Văn Nguyễn Du.
Bí danh Ma Văn Kháng được dùng là bút danh đã nói lên sự gắn bó và tình yêu của tác giả đối với miền đất từng hoạt động trên 20 năm, nơi quê hương thứ hai của mình.
Tác phẩm chính đã xuất bản:
* Gồm trên dưới 200 truyện ngắn. Một số đã được tập hợp trong 4 tập Truyện ngắn Ma Văn Kháng, đánh số tờ 1 đến 4 do NXBCAND ấn hành năm 2003, và trong các tập tiêu biểu như: Truyện ngắn chọn lọc (NXB hội Nhà Văn 2008); Trăng soi sân nhỏ (1994), Heo may gió lộng (1992); Một chiều giông gió (1998); Móng vuốt thời gian (2003); Cuộc đấu của gà chọi (2005); Trốn nợ (2008); Một nhan sắc đàn bà (2011)...
* Về tiểu thuyết, tính đến năm 2010, tác giả đã có 14 cuốn. Trong đó có các cuốn như: Đồng bạc trắng hoa xòe; Vùng biên ải; Trăng non; Gặp gỡ ở La Pan Tẩn; Mưa mùa hạ; Mùa lá rụng trong vườn; Đám cưới không có giấy giá thú; Một mình một ngựa... Nhiều cuốn đã được tái bản nhiều lần.
* Về Hồi ký : Tác giả đã cho in Hồi ký Năm tháng nhọc nhằn và Năm tháng nhớ thương (2009).
Giải thưởng Văn học:
Giải thưởng Văn học Đông Nam Á - ASEAN AWARD WRITER- 1998 Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 2001. Giải thưởng Hôi VHNT các dân tộc Thiểu số năm 2002 và 2003. Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội 1986 và 2009.
* Nhà Văn cũng đã được nhận: Huy Chương KC Chống Pháp loại I. Huân chương KC Chống Mỹ loại I. Huy hiệu 40 năm (2000) và 50 năm tuổi Đảng (năm 2010).
Một cuốn sách theo mình không dễ để đọc liền mạch. Nhân vật Tự không phải một kiểu nhân vật xa lạ, ngược lại, Tự có chấp chứa nhiều bóng hình của không ít các nhân vật cùng thời hậu chiến, thời đổi mới. Ở Tự ta nhìn nhận được tất cả những gì gọi là bi kịch đương thời. Con người Tự xuyên suốt cuốn sách được đặt trong sự đan xen của các vấn đề lịch sử, chính trị, xã hội, gia đình và cả chính mình. Cuộc đời, như cái cách mà cậu học trò ngỗ nghịch năm xưa đã mô tả để chọc Tự : "Đời là vại dưa muối hỏng", cuối cùng, trớ trêu thay lại đúng với Tự. Thương Tự, thương anh giáo nghèo trên căn xép nhỏ. Cuốn này đề cập đến vấn đề chính trị xã hội nhiều, tinh thần phản kháng chế độ mạnh mẽ, chắc có lẽ đó là lí do mà con đường đến với bạn đọc dường như không mấy rộng mở.
Lại 1 tác phẩm của MVK được chuyển thể thành phim mà hồi bé mê tít.... Review xíu nhé:
Đọc Đám cưới không có giấy giá thú, thật dễ dàng để liên tưởng thầy giáo Tự với hình ảnh thầy Keating: hai con người đều mang theo những mâu thuẫn khắc nghiệt với môi trường mà họ giảng dạy, và trên cái nền đó bức chân dung tâm hồn họ được tỏa sáng.
Tuy rằng tác phẩm này đi xa hơn một câu chuyện về việc dạy học – nhà văn Ma Văn Kháng chỉ lấy ngành giáo dục làm bức phông nền cho xã hội méo mó hiện thời, hình tượng “người thay đổi kiến trúc tâm hồn” vẫn khiến bất kì người đọc nào cảm động.
Giữa lúc giáo dục đang như cái ung nhọt đầy trái khoáy – với những giáo viên kém trình độ như Hiệu trưởng Cẩm, kém nhân cách như cô giáo Thảnh, thì thầy giáo Tự vẫn giữ nguyên cho mình một sự mực thước đáng nể. Như lời mà nhà văn Ma Văn Kháng dùng để mô tả, Tự “mô phạm mà vẫn không mờ nhạt lòng nhiệt thành, tinh thần triệt để", “mực thước mà vẫn sâu sắc, đôn hậu mà vẫn uyển chuyển, đa cảm mà vẫn rắn rỏi, không dễ uốn mình, cảm thông với mỗi sa sảy, yếu đuối của học trò”.
'Dam cuoi khong co giay gia thu': Gap nguoi thay doi kien truc tam hon hinh anh 1 Đám cưới không có giấy giá thú - cuốn tiểu thuyết tâm đắc của nhà văn Ma Văn Kháng. Người ta cảm trước cái đẹp của người giáo viên Tự, trước hết là bởi Tự có một sự kính trọng thuần khiết dành cho kiến thức, cho nghề dạy chữ. Tự yêu nghề, bởi chỉ khi bước chân lên bục giảng ấy, đáp lại lời chào của học trò, anh mới thấy mình “không gặp phải sự phản bội”, “thấy mình thật đẹp đẽ, hùng mạnh, cao quý”.
Tự tập viết hàng chữ cho thẳng, học thuộc một câu thơ để viện dẫn, sưu tầm một danh ngôn, tra cứu một điển cố, chữa một câu văn sai, sửa một lỗi chính tả, như thể anh đặt từng chút, từng chút tâm trí vào công việc dạy học này. Dường như Tự đã bén duyên với cái chữ, cái nghiệp này bắt đầu từ khi anh lọt lòng và mang cái chữ trong tên.
Và có lẽ, chính cái tình yêu con chữ được tự phát hồn nhiên ấy trước học trò lại chính là cách truyền đạt hiệu quả nhất. Thế nên, dù có là hai mươi năm sau, người học trò cũ của Tự vẫn còn biên thư cho thầy, thổn thức nỗi niềm mến trọng khi nhớ về những lời thơ thầy từng dạy. Tự là người đánh thức cái đẹp, cái xúc động, là người vẽ ra định hướng cho cuộc tìm kiếm bản thân trong mỗi người học trò ngày đó.
Vượt lên trên cả những con chữ, trên cả thơ ca, điều giá trị nhất mà Tự trao cho học sinh của mình chính là những giá trị đạo đức mà con người anh chính là một tấm gương trinh nguyên. Nếu như nhà trường là một thánh đường tôn nghiêm, thì Tự là một sứ thần tận tụy, gìn giữ sự trong ngọc trắng ngà của những linh hồn trẻ dại, để chúng không bao giờ sa vào mưu chước cám dỗ của ma quỷ và vấy bùn nơi trần thế.
Với Tự, dù có là con ông đồ tể vô học hay là con trai của Bí thư thị ủy, Tự vẫn sẽ thẳng tay trừng phạt những học sinh hỗn hào, ngỗ ngược. Dẫu rằng hành động trừng phạt ấy có khiến Tự phải chịu cảnh ép uổng, nhưng cũng chính nhờ nó mà Tự trở thành hình ảnh của lý tưởng, là siêu nhân trong mắt những đứa học trò.
Nếu như tới cuối bộ phim Hội cố thi nhân, những lý tưởng của thầy Keating cũng không thoát khỏi gọng kìm chuyên chế của nhà trường, buộc thầy phải nghỉ việc; thì thầy giáo Tự cũng phải chật vật đi tìm chỗ đứng cho mình trong cái xã hội dị dạng. Tự không chỉ rơi vào cái bi kịch “đời thừa”, mà còn bị hãm hại bởi những kẻ đê hèn, cổ hủ - những kẻ không thể nào dung hòa được với cái đẹp trong con người anh.
Thế nhưng, “đám cưới không có giá thú cũng vẫn thành”, tâm hồn anh vẫn sẽ tới được với lý tưởng của đời anh. Và trái ngọt nhất của cuộc hôn phối ấy, chắc chắn là những người học trò – giờ đã là bác sĩ, tiến sĩ, kỹ sư,… lịch lãm, thấm nhuần đạo lý của anh và nối dài nó.
Đám cưới không có giấy giá thú ra đời vào những năm sau Giải phóng, khi mà những sự biến chuyển của thời cuộc cũng kéo theo nhiều sự đảo lộn về giá trị sống. Cũng giống như nhiều tác phẩm khác của Ma Văn Kháng, Đám cưới không có giấy giá thú chứa đầy những chiêm nghiệm nhân sinh, những nỗi niềm đau đáu của nhà văn về nhân tình thế thái.
Nhưng nói về giáo dục, Ma Văn Kháng lần này đã đâm thẳng vào những khối u người ta thường né tránh, đến mức cuốn sách ở thời điểm ra mắt liên tục được đưa ra bàn luận, tranh cãi. Có lẽ, bản thân cũng từng là một giáo viên, ông hẳn cũng đã ấp ủ nhiều tâm sự giống như Tự. Xây dựng nên một hình tượng người thầy đẹp như Tự, Ma Văn Kháng cũng đã khiến người đọc phải thêm cảm phục ông, “người thay đổi kiến trúc tâm hồn” bằng con chữ.
Cụ Ma Văn Kháng viết cuốn này chắc tay quá! Ý tứ, quan điểm đều được mổ xẻ phanh thây rất gọn ghẽ, lại nhuần nhị. "Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú" dường như là một hi vọng mong manh mơ hồ của tác giả và thế hệ tri thức đi trước nói chung vào một tương lai hiện đại và tốt đẹp hơn. Đó là một tương lai nơi những giá trị truyền thống tốt đẹp được giữ gìn, bảo tồn cùng với đấy là sự phát triển tích cực mang tầm vóc lớn lao được đan xen trong những cái mới. Nhưng nào ai có chắc chắc được điều gì, khi con người thì vẫn lại con người, đều là những chủ thể chính trị từ khi chào đời trong một bộ khung đóng sẵn. Mới như thế nào để rồi những người tài đứng lên sẽ rồi lại phải quay về ngôi lều rách mà ngâm khúc "Phong vận kì oan ngã tự cư" ? Cuốn này tác giả dường như thổ tả mà viết, trang giấy tựa hồ đẫm máu, dúi chìm những trí thức bay cao trên bầu trời ngắn cũn của ... Tính nết tiêu cực hòng "cào bằng" vạn vật đó tiếc thay là đến nay vẫn đương còn thống trị, thậm chí còn tinh vi hơn với biết bao thủ đoạn phức tạp đê hèn.
Mấy chương đầu đọc hơi khô, chỉ cảm nhận được csong khó khăn thời hậu chiến. Nhưng càng về sâu càng hay, mô tả thực trạng xã hội, nội tâm con người. Nếu ko có hứng thú tìm hiểu về xã hội và con người thời hậu chiến thì khó mà đọc hết cuốn truyện này: khô và đau. Riêng với bản thân nhận thấy, csong mỗi người là do tính cách cá nhân người đó tạo ra. Đọc vừa thương, vừa trách thầy giáo Tự. Cái ngay thẳng của thầy vẫn còn lưng chừng, vẫn còn nhu nhược, và vẫn chưa phải là người sống có trách nhiệm với gia đình, với xã hội: csong kte gia đình, ko dám nói lên sự thật về việc gian lận thi cử. Nhưng dù sao, vẫn ko trách thầy được, chỉ là qua nhân vật tự, qua cuốn truyện này tự có cái nhìn của bản thân mà học hỏi.
This entire review has been hidden because of spoilers.