Đất Nước Đứng Lên của nhà văn Nguyên Ngọc là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học cách mạng Việt Nam, khắc họa hình ảnh bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm không chỉ mang đậm tính sử thi mà còn là một thiên anh hùng ca về sức mạnh quật cường của con người Việt Nam trong hành trình bảo vệ đất nước.
Bối cảnh của Đất Nước Đứng Lên được đặt trong những năm tháng gian khổ khi Tây Nguyên chìm trong bóng tối của áp bức thực dân. Núi rừng, buôn làng và con người nơi đây phải chịu đựng ách nô dịch tàn bạo, nhưng trong khó khăn ấy, ý chí đấu tranh bùng lên mạnh mẽ. Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết là anh hùng Núp - một người con của buôn làng đã đứng lên lãnh đạo dân làng đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược. Hình ảnh anh Núp vừa gần gũi vừa mang tính biểu tượng, đại diện cho sức mạnh và tinh thần bất khuất của đồng bào Tây Nguyên.
Nguyên Ngọc đã xây dựng nhân vật anh Núp bằng những đường nét giản dị mà kiên cường. Xuất thân từ một người nông dân nghèo khổ, chứng kiến cảnh áp bức và bất công, Núp không cam chịu mà lựa chọn con đường cầm vũ khí đứng lên. Dưới sự dẫn dắt của anh, buôn làng trở thành một pháo đài bất khả xâm phạm, gắn kết bằng tình yêu đất, tình yêu rừng và niềm tin vào chính nghĩa. Nhân vật Núp được khắc họa vừa như một con người bình thường với những nỗi đau và mất mát, vừa như biểu tượng anh hùng mang tính sử thi, được hun đúc từ truyền thống kiên cường của dân tộc.
Điểm đặc sắc trong Đất Nước Đứng Lên còn nằm ở cách nhà văn Nguyên Ngọc khắc họa thiên nhiên và văn hóa Tây Nguyên.
Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc và viết tiểu thuyết Đất nước đứng lên, kể về cuộc kháng chiến chống Pháp của người Ba Na, tiêu biểu là anh hùng Núp và dân làng Kông-Hoa, dựa trên câu chuyện có thật của anh hùng Đinh Núp. Tác phẩm khi xuất bản được nhiều người yêu thích và hâm mộ. Sau này cuốn truyện được dựng thành phim. Năm 1962 ông trở lại miền Nam, lấy bí danh Nguyễn Trung Thành, hoạt động ở khu V, là Chủ tịch chi hội Văn nghệ giải phóng miền Trung Trung Bộ, phụ trách Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng của quân khu V. Thời gian này ông sáng tác truyện Rừng xà nu. Sau chiến tranh, ông có thời gian làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ.
Hoạt động xã hội
Sau thời kỳ làm báo, ông tham gia tích cực trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và chấn hưng giáo dục Việt Nam. Ông đã dịch một số tác phẩm lý luận văn học như Độ không của lối viết (Rolland Barthes), Nghệ thuật tiểu thuyết (Milan Kundera), tác phẩm của Jean-Paul Sartre, Jacques Dournes... Được xem là một chuyên gia về Tây Nguyên, trong buổi hội thảo vào tháng 4 năm 2009 về vấn đề khai thác bauxite ở Việt Nam, ông cho biết ý kiến chưa đồng tình với chính sách của chính phủ. Ông cũng từng tham gia phong trào quần chúng biểu tình phản đối việc gây hấn, xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông năm 2011 trong bối cảnh có sự ngăn cấm. Ngày 22 tháng 8 năm 2011, Đài truyền hình Hà Nội có làm một chương trình về sự việc này, trong đó có đoạn phát thanh viên nói "một số phần tử phản động tham gia biểu tình", đồng thời khung hình đang quay cảnh Nguyên Ngọc và 2 trí thức khác là giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Văn Khải. Sự việc này làm ông bất bình và đã gửi thư phản kháng lên Bí thư Thành ủy Hà Nội. Gần đây, ông đã xin rút tên khỏi danh sách đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2011, một giải thưởng cao quý của Việt Nam, một động thái được nhiều người cho rằng nhằm phản đối quy trình bầu chọn bất hợp lý của hội đồng giải thưởng.
Những tác phẩm chính
Đất nước đứng lên Rẻo cao Đường chúng ta đi Đất Quảng Rừng xà nu Có một đường mòn trên biển Đông Cát cháy Tản mạn nhớ và quên, 2004 Nghĩ dọc đường, 2005 Lắng nghe cuộc sống, 2006 Bằng đôi chân trần, 2008