Công trình này là sự góp mặt của hai mươi tiểu luận triết học của một tác giả được đánh giá là một trong những nhà văn, nhà triết học vĩ đại nhất của châu Âu thế kỷ XX và trong nền văn hóa Hungary. Lối viết tiểu luận của Hamvas Béla không quá lý tính để dẫn tới sự khô khan và đó là sự hòa quyện giữa tư duy của một nhà triết học và sự mềm mại, bay bổng trong ngôn ngữ của một nhà văn, nhà nghệ sĩ lớn. Sự kết hợp giữa kiến văn sâu rộng với tư duy nhạy bén và tính chất mơ mộng của nghệ sĩ đã khiến Một giọt từ sự đọa đày trở nên quyến rũ lạ thường. Thông thường, những triết gia, những nghệ sĩ kinh điển phải là những người có số phận bi đát, Hamvas Béla cũng không phải là ngoại lệ. Bởi sự phản tỉnh của ông trong thời đại mà mình lưu trú, sự tiên phong trong ý thức tìm kiếm tự do, khai mở những con đường mới cho nghệ thuật, dám gây hấn với đám đông đồng dạng đã tất yếu dẫn tới một cuộc đời đầy thăng trầm của ông.
Béla Hamvas was born in 23 March 1897 in Eperjes (Prešov). His father, József Hamvas was an evangelical pastor, teacher of German and Hungarian, journalist and writer. The family moved to Bratislava in 1898, where Hamvas completes his basic studies in 1915. After graduation, like his classmates, he entered voluntary military service and was sent to the front in Ukraine. He is sent back to Budapest for hospital treatment due to severe traumatic shock, but just after recovery, he's being drafted to the front lines to western Italy. He never reaches the battlefield, as his train was hit by a bombshell, wounding Hamvas, who was discharged.
In 1919 his father refuses to take an oath of allegiance to Czechoslovakia, whereby his family was expelled from Bratislava. They move to Budapest, where Hamvas attends Péter Pázmány University. Upon graduation he became a journalist at the newspapers Budapesti Hírlap and Szózat. Hamvas considered this job shallow and humiliating, but he had to support his family (his father was pensioned in 1924). Three years later he quits, as he finds a better job in the main library of Budapest. He is appointed as a senior librarian in 1927. By this time he is writing articles, reviews and essays for 25 different journals. He marries Ilona Angyal in 1929, but divorces in 1936 to marry Katalin Kemény in 1937. She was her partner in founding the Sziget circle, a literary group which later gains prominent members like Antal Szerb, László Németh, or Antal Molnár.
Nearly 20 years of library work is ended by World War II. Hamvas was drafted for military service three times. He continues his literary work while on the front lines - translating Laozi and Heraclitus among others. His first essay collection is published in 1943.
The couple survives the siege of Budapest. Their apartment is hit by bombing, destroying his library and manuscripts. Despite the Soviet siege and numerous harassment by authorities, 1945-1947 are his most fruitful years.
In 1948 he was placed on the b-list (interdiction from publishing) by the newly elected communist government, and was forced into retirement from his library job. While he published more than 250 works before his interdiction, most larger body of Hamvas's work was written anonymously later on. He gets licence to farm in the garden of his brother-in-law in Szentendre, and is tending plants between 1948-1951, in which time he also completes Karnevál, one of his major essay.
Between 1961-1964 he is employed as an unskilled worker in power plant buildings in Tiszapalkonya, Inota and Bokod, under harsh conditions. Whenever he has spare time, he translates from Sanskrit, Hebrew and Greek, and writes about the Cabala, Zen, and Sufism. Between 1959 and 1966 he completes Patmosz, his last major work.
Aged 67, he finally manages to get permission for pension. Béla Hamvas dies in 1968 in brain hemorrhage. He was buried in Szentendre.
In 1990 he receives the Kossuth Prize posthumously.
Một triết gia phải đọc đối với những ai quan tâm đến sự tương quan giữa những tư tưởng phương Đông và phương Tây, về nguồn gốc của chúng và những sự khác biệt. Ông này đọc nhiều kinh khủng, kiến thức bao quát khắp các lĩnh vực và quan trọng hơn cả là ông có một niềm kính ngưỡng vô cùng lớn đối với những nguồn cội cổ xưa của triết học. Đọc ông khiến người ta phải thơ thẩn suy tư về những gì nhân loại từng có nhưng dường như giờ đã mất, có khi phải day dứt vì một ý tưởng mà ông gợi mở hay sực tỉnh về một chân lý rất đỗi giản dị mà ta chẳng thể ngờ.
“Đời sống chỉ bắt đầu, nếu con người không biết cái gì sẽ tới. Đời sống không có tác động vỗ về. Bởi vậy Thượng đế tạo ra ngai vàng nhưng không hề nghĩ đến việc ngự trên ngai vàng.”
“Sự sống thể hiện theo hướng kẻ nào định giữ nó lại thì nó bốc hơi trên tay kẻ đó, nếu đem reo rắc khắp nơi, sự sống giàu có sẽ ngả vào lòng nó. Thế gian không biết điều này.”
Đọc ông để mở mắt, để thấy và để ngưỡng vọng một thời đại hoàng kim.
Đáng đọc, ngoại trừ những chương đi sâu vào tôn giáo đọc không hiểu và sự chỉ trích khắc nghiệt ở phần cuối đối với các hình thức xã hội cũng như các chủ nghĩa Karl Max, Darwin, Freud,... "Không cái xấu nào lớn hơn sự đau khổ, nhưng cũng không hạnh phúc nào lớn hơn, việc hồi tưởng lại những đau khổ" Học cách thấy vẻ đẹp trong mọi việc. Chỉ khi đọc những cuốn sách trong "tủ sách tinh hoa" thì đầu óc mình mới được thõa mãn ngẫm ngợi về những tư tưởng, đối chiếu với cuộc đời bên ngoài, và thoát khỏi những suy nghĩ tầm thường hàng ngày. Xuyên suốt các tiểu luận là việc mâu thuẫn của con người, của đời sống, như một dòng chảy kết nối và tách rời mọi thứ. Xã hội học của sự cô đơn cho thấy sự uyên bác vượt thời gian của Hamvas, cô đơn vẫn luôn là vấn đề của xã hội, tùy theo từng thể chế xã hội, cách nhìn nhận về cô đơn cũng khác nhau, thế nhưng các loại cô đơn thì vẫn như vậy, con người trải nghiệm cô đơn theo những cách giống nhau cho dù là thời đại nào đi nữa. Hamvas nói nhiều đến đơn độc, cô đơn, và mình, hiểu sâu sắc điều đó trong hiện tại "Nếu có gì xứng đáng để ta cảm ơn trên thế gian này, đó là nó cho ta khả năng sống đơn độc - một đời sống lớn nhất và nguy hiểm nhất" đời sống lớn nhất là vì ta nhìn thấu chính mình, đối diện vào chính mình, bản thân ta là cả vũ trụ, nguy hiểm là vì "Sự nhận thức của một thực thể sống là một cảm giác tiêu cực", ta nhìn rõ những điều xấu xã, khiếm khuyết, tội lỗi của ta, nhìn được nhưng không thể làm gì hoặc chưa muốn làm, đều khó chịu. "Đêm đen của linh hồn" là nỗi sợ thường trực, trải nghiệm của mình với nó là " Tôi không phải là người hay sợ hãi điều gì, thế nhưng quen biết người đó, ngay cả ngày mai cũng khiến tôi sợ hãi ", sợ hãi đem tới sự đọa đày mà theo Hamvas là " khi linh hồn làm thức tỉnh trí tưởng tượng âm phủ và tự xé bản thân mình ra trong đó" và cuối cùng " When you go through hell, keep going "
Cảm ơn tác giả, dịch giả, nhà xuất bản đã mang đến tác phẩm xuất sắc này. Quyển sách là tập hợp những bài tiểu luận sâu sắc được thể hiện mượt mà như những áng thơ, được dịch giả chuyển ngữ hay tuyệt vời. Nếu đây là lần đầu tiên bạn tiếp xúc với triết, cuốn này sẽ là khởi đầu lý tưởng bởi kiến thức sâu rộng đa lĩnh vực mà tác giả bao quát, tư duy mạch lạc dã man luôn.