Mười chín tuổi, thầy Quang Tình người miền xuôi xung phong lên dạy học ở một tỉnh miền núi. Ra đi như “cờ bay trong gió, như lửa thốc trong lò”, người thanh niên nọ đã đem hết niềm say mê lý tưởng, cuộc đời để làm công việc mang đến ánh sáng văn hóa cho con em các dân tộc. Sau một thời gian dạy học ở các làng bản, do đã tích lũy được nhiều kinh nghiêm và có uy tín trong nghề nghiệp, thầy Quang Tình được điều về dạy học ở trường Bổ túc Văn hóa Công Nông, nơi chuyên dạy văn hóa cho các cán bộ xã cơ sở nông thôn miền núi của tỉnh. Đứng đầu cơ sở giáo dục này là một người thô bạo, có thiên kiến nặng nề với những ai xuất thân từ các tầng lớp khác không phải là công nông. Giữa hai người bất đồng nối tiếp bất đồng, và kết quả là thầy Quang Tình bị sa thải, phải ra khỏi ngành. Vợ thầy cũng bị liên lụy.
Ra khỏi ngành, nghề nghiệp không, tiền bạc không, đất đai không, lại vợ dại con thơ, sống thế nào đây? Thầy Quang Tình, sẵn ý chí bất khuất, bắt tay vào công cuộc mưu sinh vô cùng gian khó. Sau một thời gian phải làm cả những công việc nguy hiểm và bẩn thỉu, thầy quyết định học nghề mộc. Sẵn ý chí không chịu thua hoàn cảnh và tố chất khéo léo, cùng với lòng kiên trì, ham học hỏi, lần lần thầy đã nắm vững được kỹ thuật nghề mộc, vượt qua được tình trạng bị dồn vào bước đường cùng, nuôi được vợ con.
Tuy nhiên quan trọng ở đây là thầy đã tìm ra con người mình. Tìm ra ở chính cái cuộc sống mà thầy đã rơi xuống. Sau những gì qua đi, còn lại là cốt cách thanh tao, nhân cách cao cả của thầy.
Tiểu thuyết không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống với những mảng màu sắc thái khác nhau, sinh động và hấp dẫn, mà còn phát ngôn một thái độ, một triết học nhân sinh, một quan niệm thẩm mỹ về cuộc đời, con người. Sự trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời cũng như khả năng quan sát thấu đáo của Ma Văn Kháng đã làm nên những trang văn tỉ mỉ, tinh tế, công phu.
Nhà Văn MA VĂN KHÁNG • Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, người Kinh, Sinh ngày l tháng 12 năm 1936. Quê gốc: phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội Hiện ở quận Ba Đình, Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam (1974).
Vài nét về quá trình học tập, công tác :
Năm 1948: Đội viên Đội Truyền bá vệ sinh Cục Quân y.
1949: Học sinh Trường Thiếu Sinh Quân, Bộ Quốc Phòng.
1952-54: Học sinh Trường Sư pham Khu học xá Trung Ương (Nam Ninh - Quảng Tây- Trung Quốc).
1955-59: Hiệu trưởng Trường Cấp II Thị xã Lào Cai.
1960-63: Sinh Viên Đại học Sư Phạm Hà Nội.
1963: Hiệu trưởng Trường Phổ thông Cấp III Thị xã Lào Cai.
1968: Thư ký của Bí thư tỉnh ủy Lào Cai.
1970-76: Phó Tổng biên tập Báo Lào Cai- cơ quan của Tỉnh đảng bộ Lào Cai.
1976 : Chuyển công tác về Hà Nội. Biên tập viên, tiếp đó là Tổng Biên tập, Phó Giám đốc Nhà Xuất Bản Lao động - Tổng Liên đoàn Lao động VN.
Từ tháng 3- 1995 là Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Đảng đoàn Hội Nhà văn khoá V, Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài.
Từ tháng 4 năm 2000 là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam khóa VI. Chủ nhiệm Tạp chí Văn học nước ngoài.
Năm 2006 là Chủ tịch Hội Đồng Văn xuôi, Phó Giám đốc Trung Tâm Bồi dưỡng Viết Văn Nguyễn Du.
Bí danh Ma Văn Kháng được dùng là bút danh đã nói lên sự gắn bó và tình yêu của tác giả đối với miền đất từng hoạt động trên 20 năm, nơi quê hương thứ hai của mình.
Tác phẩm chính đã xuất bản:
* Gồm trên dưới 200 truyện ngắn. Một số đã được tập hợp trong 4 tập Truyện ngắn Ma Văn Kháng, đánh số tờ 1 đến 4 do NXBCAND ấn hành năm 2003, và trong các tập tiêu biểu như: Truyện ngắn chọn lọc (NXB hội Nhà Văn 2008); Trăng soi sân nhỏ (1994), Heo may gió lộng (1992); Một chiều giông gió (1998); Móng vuốt thời gian (2003); Cuộc đấu của gà chọi (2005); Trốn nợ (2008); Một nhan sắc đàn bà (2011)...
* Về tiểu thuyết, tính đến năm 2010, tác giả đã có 14 cuốn. Trong đó có các cuốn như: Đồng bạc trắng hoa xòe; Vùng biên ải; Trăng non; Gặp gỡ ở La Pan Tẩn; Mưa mùa hạ; Mùa lá rụng trong vườn; Đám cưới không có giấy giá thú; Một mình một ngựa... Nhiều cuốn đã được tái bản nhiều lần.
* Về Hồi ký : Tác giả đã cho in Hồi ký Năm tháng nhọc nhằn và Năm tháng nhớ thương (2009).
Giải thưởng Văn học:
Giải thưởng Văn học Đông Nam Á - ASEAN AWARD WRITER- 1998 Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 2001. Giải thưởng Hôi VHNT các dân tộc Thiểu số năm 2002 và 2003. Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội 1986 và 2009.
* Nhà Văn cũng đã được nhận: Huy Chương KC Chống Pháp loại I. Huân chương KC Chống Mỹ loại I. Huy hiệu 40 năm (2000) và 50 năm tuổi Đảng (năm 2010).
Một tác phẩm rất đặc sắc, mang tính văn học cao với những chi tiết về tín ngưỡng dân gian, lịch sử, xã hội, và nghệ thuật trong nghề mộc của Việt Nam.
Văn phong của nhà văn Ma Văn Kháng rất đặc trưng, mình đã đọc những truyện ngắn của ông thời sinh viên và rất thích, giờ được đọc tiểu thuyết này, thật sự thấy bút lực và vốn sống của ông dồi dào, tâm huyết, sâu sắc và cô đọng.
Nội dung tác phẩm đưa độc giả vào một không gian vừa hiện thực xã hội với những cuộc đấu tố nhau qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước, mà nạn nhân chính là thầy giáo Quang Tình, và vừa huyền ảo, rộn rã, đặc sắc với những phong tục miền núi như hát Giáy, nghi lễ then, cùng những câu chuyện dân gian kỳ bí của nghề mộc.
Tấm ván thiên là tấm ván bằng gỗ tâm vàng dùng làm quan tài, nó biểu tượng cho điều gì trong truyện? Phải chăng là gánh nặng của cái chết, của sự sợ hãi, của nỗi tuyệt vọng khi không tìm ra cách phản kháng? Hay cũng là thử thách vho nhân tính?
Đây là 1 trong những tác phẩm văn học hiện đại của Việt Nam đặc sắc nhất với mình.
Người thợ mộc và tấm ván thiên - 2 hình ảnh khá đối lập với nhau nhưng lại có một mối liên kết ngầm. Người thợ mộc đại diện cho sức sống, cho sự sáng tạo, cho sự chăm chỉ, cần cù mà ở đây là là thầy giáo Quang Tình - một con người thật thà, chất phác, luôn ham học hỏi và hết lòng hết sức làm cho bằng được những gì bản thân muốn. Tấm ván thiên đại diện cho sự chết chóc, sự hiểm độc ẩn bên trong mà cho dù có chôn vùi nó bao lâu đi nữa nó cũng chẳng hề bị mối mọt, mà nó sẽ càng dẻo dai, chắc chắn hơn. Thú thực là trước khi đọc tác phẩm, mình không hề biết tấm ván thiên là cái gì cả, chỉ nghĩ nó là 1 loại gỗ thôi. Sau khi đọc truyện thì mới biết nó là ván quan tài làm từ gỗ vàng tâm hoặc gỗ dổi. Hai hình ảnh này không trực tiếp gặp nhau nhiều trong toàn bộ câu chuyện mà chỉ xuất hiện vào đoạn cuối khi mà sư phụ Văn Chỉ dẫn thầy Quang Tình vào trong nghĩa địa để lấy những tấm ván từ những ngôi mộ mới đào lên để làm đồ tặng cho viên cảnh sát Kình sau khi hắn có ý định lợi dụng chức quyền để dâm ô với vợ thầy. Nhưng 2 hình ảnh thì lại gián tiếp bện chặt vào nhau trong toàn bộ câu chuyện, tạo nên tình tiết, nút thắt cũng như dẫn dắt cuộc đời của toàn thể các nhân vật. Những "người thợ mộc" như thầy Quang Tình, sư phụ Văn Chỉ, thầy Lễ, thầy Đình luôn bị "những tấm ván thiên" như thầy hiệu trưởng kiêm bí thư chi bộ Hoàng Hủ, những viên cảnh sát Kình đè nén, kìm kẹp. Cuộc sống của họ dẫu cùng cực, vất vả, bị ganh ghét, hãm hại nhưng họ luôn có ý thức giữ tâm mình trong sạch, dù là đi hót phân, làm thợ mộc - hôi thối, nặng nhọc nhưng họ vẫn quyết tâm làm vì đơn giản là họ ko thể làm điều trái lương tâm. Còn những con người đại diện cho thế lực cầm quyền nhưng xấu xa và độc ác, không từ mọi thủ đoạn để hãm hại người khác để bảo vệ vị trí của mình trong xã hội, lợi dụng chức vụ của mình để tư lợi cho bản thân kia cũng sẽ gặp quả báo, kết cục không tránh khỏi của quy luật nhân quả. Suy cho cùng, những kẻ xấu xa đó thực chất chỉ là những kẻ yếu ớt, đớn hèn nên mới phải tìm cách hãm hại người giỏi giang, mạnh mẽ. Câu chuyện về việc lợi dụng chức quyền này vẫn còn đúng đến tận bây giờ khi mà đất nước đã phát triển lên, nền kinh tế đã giàu mạnh hơn trước, suy nghĩ của con người có vẻ tân tiến hơn nhưng những thói hư tật xấu, lối suy nghĩ nông cạn, thiếu hiểu biết, sự tham ô tham những đầy sai trái thì vẫn còn y nguyên như hồi đất nước mới áp dụng nền kinh tế thị trường. Điều đó là điều có thể hiểu được khi mà những tấm ván thiên vẫn còn tồn tại trong đầu những con người này và vẫn tồn tại trong phần lớn chúng ta. Chôn nó đi? Không giải quyết đc vấn đề, nó vẫn còn nguyên đó, dẻo dai hơn. Có chăng là chúng ta phải biến nó thành những đồ đạc hữu dụng với con người như cánh cổng, chuồng lợn... Và tuyệt nhiên chớ làm thành đồ đạc cho người vì nó sẽ làm con người yếu dần đi vì bệnh tật và chết.
Cả tác phẩm là sự trăn trở của tác giả về thời cuộc, về xã hội, về con người, về những phẩm chất đạo đức hay chuẩn mực xã hội khi nó ngày càng mờ dần đi giữa cái tốt và cái xấu, nên hay không nên. Nhưng tác giả có niềm tin mãnh liệt về sự tử tế của con người được gửi gắm qua nhân vật chính của câu chuyện: dùng điều xấu để diệt trừ cái ác thì sẽ ko bao giờ giải quyết được, nó sẽ càng nhân rộng thêm mà thôi. Hãy dùng sự tử tế để thuần hóa cái ác, sự tử tế từ ngay trong con người ta để đánh đuổi phần con cũng ở trong đó, để mỗi cá nhân đều là sự tử tế, đều là sức mạnh thì khi đó ắt cái xấu sẽ chẳng còn chỗ đứng nữa.
Mình đã đọc 3 hay 4 cuốn sách của ông, lúc đầu rất ấn tượng, càng về sau càng giảm dần. Cốt truyện gần gần như nhau, nội dung không có gì đột phá. Thầy giáo nghèo vật lộn với đời sống cơm áo gạo tiền, đấu tranh với sự ngu ngốc và ghe tị đến từ bộ máy chính quyền cùng âm mưu và sự cậy quyền của công an. Đọc mãi sách kiểu này chắc cũng thấy mất hết niềm tin vào cuộc sống, tôn vinh cuộc sống tằn tiện để hi sinh vì nghệ thuật. Đành rằng cách mạng đi lên từ người nông dân không biết chữ, và sau này họ lãnh đạo và có rất nhiều hạn chế. Nhưng thật khó mà thông cảm mãi với ông giáo chấp nhận cuộc sống vật chất nghèo nàn như những nhân vật chính của Ma Văn Kháng mãi được.
Nhìn vào thầy giáo Quang Tình để thấy hãy giữ cho mình một phẩm giá cao quý, một đạo đức thanh cao dù trong bất kì hoàn cảnh nào, cũng không để đánh mất mình vì hoàn cảnh và thời cuộc. Một cuốn sách để học làm người.
Một cuốn sách rất "bắc kỳ"! Đọc mà ngỡ như hồn văn Nam Cao từ những thập niên 40 nhập về những năm sau đổi mới. Một màu sắc ảm đạm cỡ Đời thừa lãng đãng khắp câu chuyện, những mẩu chuyện vụn vặt về cải cách ruộng đất, đấu tố, oan sai; hàng loạt bức tranh của những kẻ cai trị mới đi lên từ một cuộc cách mạng nông dân dùng quyền lực hành chính che đậy cái yếu đuối về văn hoá và trí tuệ. Những nguyên liệu không hề tệ, nhưng tác giả đã không nỡ dìm nhân vật chính của mình vào cái áp lực nghẹt thở hơn nữa, cái hoàn cảnh trớ trêu hơn nữa, cái nút thắt đau đớn hơn nữa để thấy được đến đáy của bùn lầy người thầy giáo đáng kính Quang Tình có biến đổi không. Thiếu cái tàn nhẫn như Nam Cao thường đẩy nhân vật của mình vào nên câu chuyện chỉ dừng ở mức trung bình mà không thể vươn lên thành xuất sắc. Có chăng, đọng lại là một tia sáng mỏng manh: hãy sống lương thiện, khi còn có thể.