Jump to ratings and reviews
Rate this book

Geo Epoche - Der Vietnamkrieg Nr. 80

Rate this book
Rare Book

163 pages, Paperback

Published August 1, 2016

3 people are currently reading
22 people want to read

About the author

Michael Schaper

295 books6 followers

Ratings & Reviews

What do you think?
Rate this book

Friends & Following

Create a free account to discover what your friends think of this book!

Community Reviews

5 stars
10 (41%)
4 stars
9 (37%)
3 stars
5 (20%)
2 stars
0 (0%)
1 star
0 (0%)
Displaying 1 - 2 of 2 reviews
Profile Image for Phan Ba.
Author 11 books41 followers
September 30, 2016
(Bản tiếng Việt ở phía dưới – Vietnamesische Version unten)
Die Artikel sind flüssig geschrieben und leicht zu lesen. Interessant ist auch, dass der Krieg von verschiedenen Blickwinkeln berichtet wird ("Im Schatten der Bomber", "Leben in der Blase"). Auch neuere Erkenntnisse der letzten Jahrzehnte sind eingeflossen. Zum Beispiel, dass Lê Duẩn seit den 60er Jahren der mächtigste Mann im kommunistischen Norden war und Hồ Chí Minh (und eigentlich auch Võ Nguyên Giáp) die repräsentative Rolle übernahm. Man versucht auch eine neutrale Stellung zu nehmen. Dies war aber m. E. nur teilweise gelungen. Zwar wird in dem Heft auch über die Gräueltaten der Vietcong und von der nordvietnamesischen Seite berichten, z. B. über das Massaker in Huế 1968. Aber das ganze Ausmaß vom Terror und andere Gewalttaten der Vietcong und nordvietnamesischen Seite wurde nicht klar dargestellt. Außer der Zahl der Opfer in Huế wurden keine anderen Zahlen genannt. Zahlen gibt es schon, z.B. seit 1968 im Der Spiegel Heft 7 / 1968 ("Um die Saigoner Regierungsautorität zu beseitigen, töteten die Vietcong in 15 000 Dörfern 13 000 Dorfälteste und Beamte, exekutierten sie so viele Lehrer, daß die Regierung zwischen 1959 und 1961 insgesamt 636 Schulen schließen mußte"). Im neueren "Krieg ohne Fronten. Die USA in Vietnam" von Bernd Greiner gibt es auch Zahlen darüber.
Ein weiterer Kritikpunkt ist die Abwesenheit der südvietnamesischen Armee im Heft. In diesem Krieg gibt es vier Parteien, aber berichtet wird fast nur von drei. Hundertausende von dieser Armee sind gefallen. Hundertausende anderen wurden zu Krüppeln. Warum dürfen sie nicht über ihr Leid erzählen? Über ihre glanzvollen Siege und bitteren Niederlagen? Über ihre unvergesslichen Erinnerungen? Man hat Philip Caputo, Michael Herr zitiert, warum nicht Phan Nhật Nam oder Cao Xuân Huy? Auch die beiden waren an der vordersten Front, auch sie haben Bücher geschrieben. Das bekannte Buch Cao Xuân Huy wurde schon ins Englisch übersetzt ("In March, My Gun Broke"). Gibt es im Projekt Oral History von Vietnam Center and Archiv keine einzige Erzählung, Erinnerung von einem Soldaten? Warum dürfen sie ihre Stimme nicht erheben? Hier ist der Vorsatz, neutral zu sein, nicht ganz gelungen.
Bei den Fotos im Heft fällt man wieder in den alten Blickwinkel der amerikanischen Reporter. Wenn schon die zwei berühmtesten Bilder dieses Krieges (die Hinrichtung auf offene Straße und das Napalm-Mädchen) dann bitte noch die Geschichten dahinter. Es gab zwei Artikel darüber in "Die Welt" ("Ein ganzer Krieg auf einer einzigen Fotografie" von Ansgar Graw und "Die ganze Story um das Foto vom Napalm-Mädchen" von Sven Felix Kellerhoff. Eddie Adams, der eines von diesen berühmten Fotos schoss, schrieb darüber einen Artikel in Times schon im Jahr 1998. All das kam leider nicht zur Sprache bei diesen zwei berühmten Bildern dieses Krieges. Die Fotos im Heft zeigen die Verwüstung, das Leid der Bevölkerung, verursacht von den Amerikanern. Es gibt aber kein Bild im Heft, das einen Terrorakt von Vietcong anzeigt. Auch hier ist der Vorsatz, neutral zu sein, nicht ganz gelungen. Bilder davon gibt es auch genug. Dieser Blickwinkel wurde einfach ausgeblendet.
Schön wäre auch ein Bild und eine kurze Geschichte über das deutsche Hospitalschiff. Tausende Vietnamesen verdanken ihre Gesundheit, ja, ihr Leben den deutschen Ärzten und Helfern. Das deutsche Schiff war ein Symbol der Menschlichkeit und Hoffnung in diesem grausamen Krieg. Ich finde schade, dass es nicht erwähnt wurde.
Die Rolle der Presse in diesem Krieg wurde auch nicht erwähnt. Dies war ja der letzte Krieg mit einer freien Presse, das kommt nicht klar heraus, nachdem man dieses Heft las. Die Meldungen der (US-amerikanischen) Presse hat ja eine große Wirkung auf den Verlauf dieses Krieges. Die Falschmeldung von Peter Arnett über die Besetzung der amerikanischen Botschaft z.B., oder der berühmte Satz ("die Stadt zerstören, um sie zu retten") angeblich von einem Major gesprochen der Reportage von Peter Arnett. Keiner der übrigen Reporter aus der Besuchergruppe in Bến Tre hat diesen Satz gehört und notiert. Die Armeeführung hat später eine Untersuchung angeordnet, um den Urheber des Zitats ausfindig zu machen. Die Quelle ist niemals identifiziert worden. Peter Arnett muss geahnt haben, dass es in diesem Fall besser war, seine Quelle vor den Nachforschungen des Pentagons zu schützen; oder er hat den Satz selber formuliert und einem anonymen Major aus stilistischen-dramaturgischen Gründen in den Mund gelegt. Ein solches Verfahren ist im amerikanischen Journalismus durchaus üblich und akzeptabel. Peter Arnett wahrt sein Geheimnis bis heute. Seine Story hat mehr als viele Bilder und Berichte aus Saigon die Einstellung der amerikanischen Öffentlichkeit zum Krieg in Vietnam beeinflusst. Auch hier hätte man mehr in den Nachkriegsliteraturen recherchieren können und nicht das alte übliche Oberflächliche einfach wiedergeben. Diese Geschichte mit dem berühmten Satz, den außer Peter Arnett keiner der übrigen Reporter gehört hat, stammt aus "Vier Drachen Am Mekong" von Winfried Scharlau.
Ich finde auch schade, dass nicht über das "Nach dem Krieg" berichtet wird. Man könnte "dem roten Wahnsinn" am Schluss doch extra einen ganzen neuen Heft widmen und dafür etwas über die Zeit danach berichten. Zigtausende, Hundertausende Mitglieder der alten Armee wurden in den Umerziehungslagern interniert. Viele kamen erst nach 17 Jahren frei. Zahllose sind in den Lagern gestorben. Hundertausende Südvietnamesen wurden in die "neue Wirtschaftszone" verbannt, ihr Vermögen wurden einfach beschlagnahm. Die ganze Geschichte mit den Boot-People und die große Hilfe von "Cap Anamur" mit Rupert Neudeck. All das wäre ein kurzer Artikel wert.
Im Großen und Ganzen erkennt man in diesem Heft die Bemühungen, neutral zu sein. Dieser gute Vorsatz wurde aber nicht durchgängig realisiert. Schade. Man hätte mehr hinterfragen können.
All die oben genannten Quellen sind frei zugänglich im Internet, außer "In March, My Gun Broke" von Cao Xuân Huy, "Vier Drachen Am Mekong" von Winfried Scharlau und "Krieg ohne Fronten. Die USA in Vietnam" von Bernd Greiner. Die zwei ersten wäre meine Empfehlung. Kissinger hat einen berühmten Satz im März/April 1975 gesprochen, nachdem die Stadt Đà Nẵng evakuiert wurde: "Why don't these people die fast?". Dies wäre die Antwort auf die fiktive Frage, ob er wirklich an dem von ihm konstruierten Frieden geglaubt hatte.
---------------------------------
Các bài viết đều mạch lạc và dễ đọc. Cũng thú vị là cuộc chiến được tường thuật từ nhiều góc nhìn khác nhau ("Dưới bóng của những chiếc máy bay ném bom", "Cuộc sống trong bong bóng"). Cả những nhận thức mới của các thập niên vừa qua cũng được đưa vào trong các bài viết, Vì dụ như từ những năm 60, Lê Duẩn là người có quyền lực nhất ở miền Bắc cộng sản và Hồ Chí Minh (thật ra thì cả Võ Nguyên Giáp) đã nhận lấy vai trò phô diễn. Cũng có cố gắng để đứng ở một vị trí trung lập. Nhưng theo tôi thì điều này chỉ thành công một phần. Tuy là quyển sách này cũng tường thuật về những hành động tàn bạo của Việt Cộng và phía Bắc Việt Nam, ví dụ như về vụ thảm sát ở Huế 1968. Nhưng toàn bộ quy mô của sự khủng bố và những hành động tàn bạo khác của Việt Cộng và phe Bắc Việt đã không được thể hiện rõ. Ngoài con số nạn nhân ở Huế ra thì không có con số nào khác được đưa ra. Số liệu thì không thiếu, ví dụ như từ 1968 trong Der Spiegel số 7 /1968 ("Để tiêu diệt quyền lực của chính phủ Sài Gòn, Việt Cộng đã giết chết 13.000 người già nhất làng và nhân viên nhà nước trong 15.000 ngôi làng, họ hành quyết thầy giáo nhiều tới mức trong khoảng thời gian từ 1959 tới 1961 chính phủ đã phải đóng cửa tổng cộng là 636 trường học."). Trong quyển mới hơn "Chiến tranh không có mặt trận. Hoa Kỳ ở Việt Nam" của Bernd Greiner cũng có số liệu cho việc này.
Một điểm đáng phê bình nữa là sự vắng mặt của quân đội Nam Việt Nam trong quyển sách này. Cuộc chiến này có bốn bên, nhưng người ta hầu như chỉ tường thuật về ba bên. hàng trăm ngàn người của quân đội này đã hy sinh. Hàng trăm ngàn người khác trở thành tàn phế. Tại sao họ không được phép kể lại những nỗi thống khổ của họ? Về những chiến thắng vinh quang và chiến bại cay đắng của họ? Về những ký ức không thể nào quên của họ? Người ta đã trích dẫn Philip Caputo, Michael Herr, tại sao không trích dẫn Phan Nhật Nam hay Cao Xuân Huy? Hai người này cũng đã ở tuyến đầu, họ đã đã viết nhiều quyển sách. Quyển sách nổi tiếng của Cao Xuân Huy cũng đã được dịch ra tiếng Anh ("Tháng Ba Gãy Súng"). Trong dự án Oral History của Vietnam Center and Archiv không có đến một câu chuyện, một hồi ức duy nhất của một người lính hay sao? Tại sao họ lại không được phép cất tiếng nói? Ở đây, ý định đóng vai trò trung lập đã không thành công.
Tại các hình ảnh trong sách, người ta đã lại rơi trở về về góc nhìn của các phóng viên Mỹ. Nếu như đã đưa lên hai bức ảnh nổi tiếng nhất của cuộc chiến này (lần bắn chết trên đường phố và cô gái napalm) thì lẽ ra cũng nên thuật lại những câu chuyện ở đằng sau đó. Có hai bài báo về việc này trên báo "Thế Giới" ("Trọn cuộc chiến trên một bức ảnh duy nhất" của Ansgar Graw và "Toàn bộ câu chuyện của em bé napalm" của Sven Felix Kellerhoff. Eddie Adams, người chụp một trong hai bức ảnh nổi tiếng đó, đã viết về việc này trong một bài báo đăng trên Times ngay từ năm 1998. Rất đáng tiếc là tất cả những điều này đều không được nói đến ở hai bức ảnh nổi tiếng này. Những bức ảnh trong sách thể hiện sự tàn phá, nỗi thống khổ của người dân, do người Mỹ gây ra. Nhưng không có một bức ảnh nào trong sách thể hiện một vụ khủng bố của Việt Cộng. Góc nhìn này đơn giản là đã bị che mất.
Một bức ảnh và một câu chuyện ngắn về con tàu bệnh viện Helgoland của Đức lẽ ra đã là một điểm tốt. Hàng ngàn người Việt đã mang ơn các bác sĩ Đức và những người giúp đỡ khác đã cứu giúp cho sức khỏe, vâng, cả cho mạng sống của họ nữa. Con tàu Đức đó là một biểu tượng của lòng nhân đạo và hy vọng trong cuộc chiến tàn bạo này. Tôi tiếc là nó đã không được nhắc đến trong quyển sách này.
Vai trò của báo chí cũng không được nhắc đến. Trong khi đó thì đây là cuộc chiến tranh cuối cùng có được một giới báo chí tự do. Điều này không thấy được sau khi đọc xong quyển sách này. Các tin tức của giới báo chí (Mỹ) đã có ảnh hưởng lớn đến diễn tiến của cuộc chiến này. Ví dụ như tin báo sai lầm của Peter Arnett về việc Việt Cộng chiếm được tòa đại sứ quán Mỹ, hay câu nói nổi tiếng ("phải phá hủy thành phố để cứu lấy nó") được cho là do một thiếu tá Mỹ thốt lên trong một bài tường thuật của Peter Arnett. Không ai trong số phóng viên còn lại ở Bến Tre đã nghe được câu nói này. Giới lãnh đạo quân đội sau đó đã tiến hành một cuộc điều tra để tìm cho ra tác giả của câu nói này. Người ta không bao giờ tìm ra được nguồn gốc. Peter Arnett chắc đã biết trước rằng trong trường hợp này thì nên bảo vệ nguồn thông tin của ông trước những cuộc điều tra của Lầu Năm Góc; hay là ông đã tự viết câu nói đó và đặt nó vào trong miệng của một viên thiếu tá vì những lý do về phong cách và bi kịch hóa. Một cách làm như vậy cũng là thông thường và chấp nhận được trong giới báo chí Mỹ. Peter Arnett đã giữ kín bí mật của ông cho tới ngày hôm nay. Câu chuyện của ông đã gây ảnh hưởng tới quan điểm của giới công chúng về cuộc chiến ở Việt Nam nhiều hơn là những bức ảnh và tường thuật khác từ Sài Gòn. Cả ở đây lẽ ra người ta đã có thề tìm hiểu thêm trong các sách báo sau chiến tranh và đã không đơn giản là nhắc lại những sự việc bề ngoài quen thuộc xưa cũ. Câu chuyện với câu nói nổi tiếng, mà ngoài Peter Arnett ra thì không ai trong số phóng viên còn lại nghe được, nằm trong quyển "Bốn con rồng sông Mekong" của Winfried Scharlau.
Tôi cũng cảm thấy tiếc khi không thấy tường thuật về "sau cuộc chiến". Người ta có thể mang "Sự điên khùng đỏ" sang hẳn một đặc san riêng và thay vào đó tường thuật một ít về thời gian sau đó. Hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người trong quân đội cũ đã bị giam cầm trong các trãi cải tạo. Nhiều người mãi 17 năm sau mới được trả tự do. Không biết bao nhiêu người đã chết trong những trại đó. Hàng trăm ngàn người đã bị đày đi vùng kinh tế mới, tài sản của họ bị tịch thu. Toàn bộ câu chuyện về thuyền nhân và sự giúp đỡ to lớn của "Cap Anamur" với Rupert Neudeck. Tất cả những việc này đáng giá một bài viết.
Nói chung, trong đặc san này người ta nhận được cố gắng muốn trung lập. Nhưng ý định tốt này không được thực hiện xuyên suốt. Lẽ ra thì đã có thể đặt ra nhiều câu hỏi lật ngược lại sự việc.
Tất cả những nguồn ở trên đều có thể được truy cập tự do trong Internet, ngoại trừ "Tháng Ba gãy súng" của Cao Xuân Huy, "Bốn con rồng sông Mekong" của Winfried Scharlazu và "Cuộc chiến không mặt trận. Hoa kỳ ở Việt Nam" của Bern Greiner. Tôi giới thiệu đọc hai quyển sách đầu. Kissinger đã nói một câu nổi tiếng trong tháng Ba/tháng Tư 1975, sau khi thành phố Đà Nẵng bị di tản. "Tại sao những người đó không chết phức đi cho rồi?". Đây đúng ra là câu trả lời cho câu hỏi tưởng tượng, liệu ông có thực sự tin vảo nền hòa bình do ông dựng lên hay không.
Profile Image for Alex.
53 reviews
Read
April 27, 2025
Die USA hat den Vietnamkrieg nicht in Südostasien verloren, sondern zu Hause auf den eigenen Straßen.

Eine super Ausgabe der Geo Epoche, um einen Gesamtüberblick über den Vietnamkrieg zu erhalten. Dieser Konflikt war so viel mehr als nur "USA gegen Vietcong" und loderte schon Jahrzente vor Eintreffen der Supermacht. Absolut lesenswert!
Displaying 1 - 2 of 2 reviews

Can't find what you're looking for?

Get help and learn more about the design.