Jump to ratings and reviews
Rate this book

Những Đỉnh Núi Du Ca

Rate this book
Đã từ lâu, người H’Mông là một tộc người rất đặc biệt trong các tộc người phía Bắc Việt Nam. Nghiên cứu về H’Mông là thách thức lớn trong nghiên cứu dân tộc học.

Nhưng với Nguyễn Mạnh Tiến, nhà nghiên cứu dân tộc học độc lập, bằng thái độ thông hiểu và nhiều năm ròng rã thực địa tại cao nguyên đá Đồng Văn, “Những đỉnh núi du ca - một lối tìm về cá tính H’Mông” là công trình nghiên cứu xuất sắc xoay quanh phát hiện, xác lập và làm sáng bộ từ khóa đã kiến tạo “cá tính H’Mông” trong lịch sử: tâm thức lưu vong - tâm thức di dân-tâm thức mồ côi, ám ảnh Hán, nổi loạn, tự do, mộng mơ, tình yêu, tự trị tộc người, quyền lực miền núi...

Trong nghiên cứu của mình, Nguyễn Mạnh Tiến cho rằng, chính cá tính H’Mông là vấn đề then chốt khi tìm hiểu tộc người này. “Cá tính H’Mông là cấu trúc ngầm ẩn, quyết định toàn bộ số phận văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng người H’Mông” (tr.45), từ đó khai triển cái nhìn trên một nền tảng rộng lớn hơn nhằm tìm kiếm một thực tại khác về lịch sử Việt Nam, phần nhìn từ núi.

456 pages, Unknown Binding

Published November 1, 2017

4 people are currently reading
54 people want to read

About the author

Nguyễn Mạnh Tiến

6 books4 followers

Ratings & Reviews

What do you think?
Rate this book

Friends & Following

Create a free account to discover what your friends think of this book!

Community Reviews

5 stars
14 (46%)
4 stars
11 (36%)
3 stars
5 (16%)
2 stars
0 (0%)
1 star
0 (0%)
Displaying 1 - 3 of 3 reviews
Profile Image for Phung Thanh.
9 reviews40 followers
April 14, 2018
Tôi chia sẻ mối quan tâm của Foucault và Rancière: tư tưởng và sự phân phối cảm quan. Những thứ này có bối cảnh lịch sử mang tính vùng miền và chính là những bối cảnh lịch sử tạo thành các vùng miền, song chúng lại xuất phát từ tiền giả định về bình đẳng, về sự không biết thế nào mà chia cắt rõ ràng- nam hay nữ, đen hay trắng, Á hay Âu có thể nghĩ và hành xử giống nhau hoặc khác nhau, là những thứ phong cách có thể ăn vận, mà không nhất thiết phải chia ra như thế.

Còn đất nước, tộc người và giới lại bắt đầu bằng sự chia cắt, phân biệt đối xử, và thật ra tôi không quen với lịch sử của các vùng đất, nhóm người, cho đến khi về làm việc tại tổ Đất nước học. Tính từ đó đến giờ thì Những đỉnh núi du ca: Một lối tìm về cá tính H'mông của Nguyễn Mạnh Tiến là tác phẩm ấn tượng nhất tôi được đọc. Tôi tìm tới nó qua lời giới thiệu của thầy Trần Ngọc Vương.

Mồ côi không mẹ cha
Thân như cái que cái gậy
Lũ nhà giàu bẻ đem đi xua gà
(Dân ca H'mông)

Biên khảo này dày công sưu tầm tư liệu, trình bày những kiến giải khác nhau, đưa ra những chi tiết thú vị. Tôi thấy những câu chuyện lay động về một tộc người thế yếu nhưng lại làm chủ những đỉnh núi cao, về những thân phận vừa kiên cường vừa nhỏ bé, vừa thông minh vừa tội nghiệp, phập phồng giữa khung cảnh núi rừng Tây Bắc- nơi tôi đã đi qua và cho là tuyệt đẹp. Người ta cũng có thể đánh giá cao tác phẩm về mô tả hệ thống quyền lực miền núi của nó: “Giữa hỗn độn của bức tranh tộc người, nhóm tộc người miền núi phía Bắc Việt Nam tồn tại đến cuối thế kỷ 19 hình thành hai lớp quyền lực chủ đạo. Lớp quyền lực vành đai núi thấp Mường – Thái (Tây Bắc) và Tày (Đông Bắc) là vành đai quyền lực nổi trội, sức mạnh của họ bao trùm toàn bộ các vùng núi. Trong đấy, vượt thoát trên các đỉnh núi, chung cho cả của Đông Bắc và Tây Bắc, bởi sự kiêu hùng, thiện chiến và đông đảo, lại hình thành riêng lớp quyền lực của người H’mông – quyền lực đỉnh núi. Các lớp quyền lực này tồn tại mối quan hệ liên đới phức tạp với nhau và với quyền lực của người Việt ở đồng bằng. Nước Việt Nam cổ truyền, nhìn từ núi, là một thực thể liên kết các trung tâm quyền lực chính trị – quân sự tộc người, trong đấy, sức mạnh người Việt ở các châu thổ là sức mạnh đã kiến tạo dân tộc – quốc gia.”

Cảm ơn tác giả. Và tôi cũng xin được nói thêm đôi điều. Các trích dẫn triết gia phương Tây có lẽ là hơi ẩu. Tôi không thích phân tâm học, nhưng điều khiến tôi có chút bất bình là sự bắt nạt người nữ, không quá nhiều nhưng mà có. Phân tâm học không nhất thiết phải như thế, dù đúng là nó khởi nguồn với giả định về những ẩn ức tính dục. Không biết học thuật thế giới còn nơi nào viết như thế không nhưng tôi chưa bao giờ đọc phải sự so sánh một vùng đất với cơ thể của người nữ mà không có khoảng cách như thế. Đấy chỉ là một ví dụ. Hẳn là với tác giả thì nó không phải là sự bắt nạt người nữ mà là một cái hứng. Nếu bạn dị ứng với các mô tả, luận giải dựa trên ẩn ức tính dục có xu hướng áp chế nữ, đôi lúc bạn có thể thấy khó chịu khi đọc cuốn sách này.
Profile Image for Nguyet Minh.
261 reviews150 followers
August 27, 2025
Đọc “Những đỉnh núi du ca” của Nguyễn Mạnh Tiến giống như đang lần bước trên một con dốc quanh co dẫn đến tận nóc nhà của Tổ quốc. Quyển sách không quá đồ sộ, nhưng lại dày dặn ở tri thức và tâm huyết. Đó là một hành trình nhọc nhằn mà thấm đẫm xúc động, vì nó chạm đến trái tim say mê văn hóa dân tộc thiểu số.

Tác phẩm là một công trình nghiên cứu dân tộc học đặc biệt, lần đầu ra mắt năm 2014 và đã được tái bản, với mục đích rõ ràng là “hiểu biết H’mông”. Không chỉ là hiểu khái quát về dân tộc này, mà là hiểu cụ thể về một tộc người sống trên đỉnh núi, trên nóc nhà của Việt Nam. Theo dòng khảo cứu, đợt di cư đầu tiên của người H’mông sang Việt Nam vào khoảng 14 đến 15 đời trước, nghĩa là trên dưới 300 năm. Tại Việt Nam, Hà Giang là nơi có số lượng người H’mông sinh sống đông nhất. Và chính nơi đây, cùng với cao nguyên đá Đồng Văn, được tác giả gọi là “sự sinh động của địa lý” với vẻ đẹp kỳ vĩ, nguyên sơ, giàu biểu tượng và lịch sử.

Người H’mông có một bản năng sống dai dẳng và mạnh mẽ, họ chọn sống trên những đỉnh núi cao, thích nghi với điều kiện khắc nghiệt nhất, và chính điều đó khiến họ vừa độc lập vừa dễ bị thao túng. Từng có thời, họ bị các thế lực lợi dụng để trồng và sản xuất thuốc phiện. Sự cô lập của địa lý cũng khiến họ di dân dễ dàng sang Trung Quốc, đặc biệt qua sông Nho Quế - biên giới phân chia mà cũng là con đường nối liền. Đặc biệt, nơi ở của người H’mông không đơn thuần là chốn trú ngụ, mà còn là một biểu tượng văn hóa. Những ngôi nhà bằng đá thô mộc, kiên cố mà cũng cô liêu đã trở thành hình ảnh đặc trưng trên các triền núi đá tai mèo, ghi dấu tinh thần gắn bó của người H’mông với đá và đất.

Tuy nhiên, điều thật sự lay động không chỉ là những phân tích chính trị hay địa lý mà là chiều sâu tâm linh và đời sống nội tâm của người H’mông mà tác giả bóc tách. “Tâm linh của người H’mông gắn liền với rừng và đá”. Vì sống lang bạt và liên tục di chuyển, kiến trúc của họ trở thành “một di sản kiến trúc đầy tính tạm bợ”. Thế nhưng, chính sự tạm bợ đó lại gieo vào lòng người H’mông một nỗi cô đơn sâu thẳm, và cũng vì thế mà tiếng hát trở thành nơi trú ngụ của tâm hồn.

Rất ấn tượng với cách tác giả dẫn lại nhận định của Savina rằng: với người H’mông, tiếng hát ra đời từ sự cô đơn của núi non. Có lẽ cũng chính vì thế mà mọi thứ đều có thể biến thành âm nhạc. “Với người H’mông, con ve được coi như một nhạc cụ vì biết phát ra tiếng nhạc. Ve kêu là lịch báo mùa cho H’mông. Ve kêu là vào xuân. Ve kêu tháng Bảy thì biết là trồng đậu. Làm khèn thì nhớ làm trong tháng Bảy, mua khèn thì nhớ mua trong tháng Bảy, trong mùa ve kêu nhiều để khèn được kêu tốt như ve. Nghe ve kêu, kêu mãi buồn lắm, người phụ nữ H’mông làm dâu, người mồ côi thương đời mình, lúc nào cũng cực nhọc buồn bã, lầm lũi một mình chỉ còn biết nhận con ve sầu làm bạn, nghe tiếng ve sầu kêu như được nghe lời tâm sự đáy lòng…”. Và thế là trong lời hát cũng nói lên lòng người H’mông muốn đầu thai thành con ve sầu: “Đi đầu thai làm con sầu con ve réo”.

Trong phần “Cá tính H’mông nhìn từ dân ca”, tác giả đi sâu vào những biểu hiện tinh tế trong thơ ca dân gian - nơi phản ánh trọn vẹn nhất lịch sử tâm lý tập thể. Những bài hát của người H’mông xoay quanh tình yêu, cưới xin, mồ côi, làm dâu, hay đám ma. Tất cả đều thấm đẫm một tâm thức lưu vong. “Vì đất nước đại triều nhà Hán chín xèo không chín kê. Mẹ cha ta gặp bước luôn li phải lưu lạc”. Ám ảnh Hán hóa cũng hằn sâu, như một giấc mơ nửa vời: “Sang tới bờ bên kia. Đôi ta làm cửa làm nhà sang như người Hán.”

Xã hội H’mông mang cấu trúc phụ hệ, nên người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu, sống trong bạo lực gia đình mà không có chỗ để giãi bày. Điều này dẫn đến một hiện tượng đau lòng là tự tử bằng lá ngón. “Hiện tượng người H’mông mỗi khi phẫn uất, bí bách trong đời sống tâm lý bèn trỗi dậy ‘bản năng chết’ và họ quan niệm rằng ‘chết là bắt đầu cho một cuộc sống khác sung sướng hơn’.” Câu hát dân gian thật buốt lòng:
“Trần gian này mình không được lấy nhau
Ngày lành tháng tốt ta hãy cùng chết đi
Cầm tay nhau đàng hoàng xuống âm
Ta sống cuộc đời khác đàng hoàng, tốt đẹp hơn.”

Và như thể, tự vẫn lại trở thành một nét văn hoá vậy.

Dẫu buồn, nhưng cũng thật đẹp khi tác giả chỉ ra một tinh thần khác của người H’mông: sự giao cảm với vạn vật. “Người với vật là một thể dung thông. Nên, người H’mông mới cất lời ca nhằm cảm ơn những đồ vật giúp mình trong lễ cưới.” Chỉ một chi tiết này thôi, cũng đủ để làm rung động, bởi nó cho thấy một mối liên hệ thiêng liêng giữa con người và thế giới, giữa vật dụng hằng ngày và linh hồn tập thể.

Tác giả cũng dành nhiều trang để nghiên cứu kỹ lưỡng về văn hoá hôn nhân của người H’mông: hôn nhân tự nguyện, kéo vợ một đêm, bắt vợ, cướp vợ… Tất cả đều là một phần trong hệ thống tín ngưỡng và nhịp sống của cộng đồng này, dù có những mặt khiến người đọc hôm nay không khỏi suy tư và tranh luận.

Đặc biệt ấn tượng với những câu thơ mang tính sáng thế, nơi tình yêu trở thành nguyên lý sinh thành vũ trụ. “Mặt trời đứng dậy trêu ghẹo mặt trăng. Đường tình duyên trai gái sinh ra. Lan xa chín mươi chín núi khe cùng thung lũng.” Tình yêu - trong cảm thức người H’mông - không chỉ là khát vọng đôi lứa, mà là sự hài hòa âm dương, là sức sống sinh sôi của cả núi rừng.

Và không thể không nhắc đến chợ tình - một biểu hiện phóng khoáng và độc đáo trong văn hoá H’mông. Ban đầu, nó mang tính khai phóng tình dục, là sự tự do nguyên thủy rất đặc biệt. Nhưng theo thời gian, sự tiếp xúc với các nền văn minh khác khiến chợ tình dần mất đi bản sắc ban đầu. “Người H’mông bị cho là đã học thói tư hữu ích kỷ của người văn minh, trước là người Pháp, sau là người Việt.”

Trong chiều kích chính trị, người H’mông là một dân tộc có xu hướng tín ngưỡng mạnh mẽ. “Chỉ cần sự xuất hiện một thành viên nào đó tự xưng là cứu thế thì người H’mông sẵn sàng từ bỏ tất cả để hiến thân theo vị ấy.” Điều này từng dẫn đến những biến cố chính trị, quân sự và nổi loạn. Tác giả dành hẳn một phần để phân tích sâu về “quyền lực miền núi cao” và “quyền lực miền núi thấp”, cùng với hệ thống bản đồ, biểu đồ minh hoạ cần đọc kỹ từng trang để hiểu được hết chiều sâu.

Trong bản tái bản, phần phụ chú hơn 70 trang ở cuối sách vô cùng chi tiết và hữu ích cho những ai nghiên cứu về đề tài dân tộc học, đặc biệt là dân tộc H’mông. Đây thật sự là một quyển sách bổ ích và kỳ công, không chỉ phác hoạ mà còn đi sâu vào nguồn gốc, bản sắc, tập tính, tâm lý… của người H’mông một cách cụ thể và nhân bản. Xin được tri ân tác giả - một người nghiên cứu đầy tâm huyết và lặng thầm, đã dành trọn một đời để lắng nghe tiếng nói của núi rừng, và trao truyền lại cho chúng ta trong từng con chữ.

Gấp lại sách, có thể thấy mình không chỉ hiểu thêm về một dân tộc thiểu số, mà còn nhận ra những mảnh gương lấp lánh phản chiếu bản sắc - dẫu bé nhỏ, xa xôi - vẫn kiêu hãnh cất lên như một bản du ca. Quả thật, H’mông là một dân tộc vô cùng cá tính, đúng như lời tựa của sách: “Một lối tìm về cá tính H’mông.”
Profile Image for Nguyễn Thanh Hằng.
Author 4 books106 followers
October 1, 2025
Một công trình khảo cứu công phu, đa lĩnh vực và rất công phu về “quyền lực miền núi” mà tác giả bắt đầu, cũng như lấy trung tâm cho toàn bộ tuyến nội dung, cùng dân tộc H’mông sống ở những đỉnh núi cao nhất. Từ đó, nội dung sách đã trải dài khắp vùng núi phía bắc Việt Nam với những dân tộc khác ở vùng núi thấp hơn, cũng như trải rộng về mặt địa lý lịch sử vùng khi lần ngược về dòng lịch sử: bắt đầu từ 3 đợt di cư của người H’mông khoảng 300 năm trước, rồi đi xa hơn nữa ngược về những dấu mốc của thời Trần, Lý, rồi trước đó nữa… Để chứng minh và khẳng định lại lần nữa sự thật về vai trò quan trọng của các vùng núi phía bắc và hơn hết, những người sống ở đấy đã từ rất nhiều đời.

Không chỉ đi sâu vào nền văn hoá H’mông với những phong tục, đặc sản, cơ cấu, kinh tế,… mà sách nói nhiều đến tâm thức H’mông như dân tộc “Do Thái lưu vong” thứ hai trên trái đất. Từ tâm thức đó tạo ra tính cách và bản sắc dân tộc người H’mông, những khúc ca ly hương, sự kiên cường, tinh thần tự do tự trị, những nét vẽ trên vải, và cả cách tự vẫn bằng lá ngón. Những nét tập tục như bắt vợ, cướp vợ, chợ tình, cách quyến rũ bằng tiếng khèn, tang ma,… đều được khảo sát theo chiều sâu để hiểu vào c���t lõi tâm thức văn hoá vì sao nó ra đời và được gìn giữ tiếp tục tồn tại. Thật kỳ lạ là khi ta đọc về những điều ngỡ như đã biết rồi, nay xâu kết lại thành ra một bức tranh tổng thể, ta hiểu rằng mình chưa biết gì về họ và những dân tộc miền núi khác.

Tôi thích thú đọc những câu chuyện lịch sử, say mê những thông tin miêu tả về tín ngưỡng của họ đối với đá nói riêng và thiên nhiên nói chung, đau lòng khi đọc về cách họ bị xoá bỏ qua những cách thức đồng hoá với văn hoá miền xuôi, và khuấy động khi đọc về vùng đất được gọi là zomia - nơi của các tộc người tìm kiếm sự tự do và xã hội phi chính trị.
Bố cục sách hợp lý, mỗi chương mở đầu bằng những lời hát của người H’mông, văn phong nghị luận và thể hiện sự tôn trọng, dịu dàng mỗi khi nói về văn hoá của các dân tộc miền núi, thông tin chặt chẽ đưa ra bản đồ phân bố các vùng văn núi miền núi Mường-Thái-Tày và H’mông. Nhiều dữ liệu và nguồn thông tin đáng tin cậy về nguồn gốc nhiều dân tộc, thậm chí dòng tộc ở Việt Nam, cho thấy sự đa dạng văn hoá và chủng tộc. Danh sách nguồn tham khảo và các chú thích rất chất lượng.

Một quyển sách tuyệt vời và nhân văn, đem các dân tộc lại gần nhau hơn trong sự tôn trọng và hiểu biết. Mong rằng sẽ có thêm nhiều đầu sách chuyên sâu về các dân tộc ở Việt Nam.
Displaying 1 - 3 of 3 reviews

Can't find what you're looking for?

Get help and learn more about the design.