Tác phẩm này là một luận án tiến sĩ quốc gia đệ trình trước Đại học Paris năm 1969 của Giáo sư Cao Huy Thuần (GS Cao Huy Thuần hiện đang là Giáo sư Đại học tại Pháp, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về Liên Hiệp Âu Châu tại Đại học Amiens). Ra đời cách đây trên 30 năm nhưng những gì trong cuốn sách này vẫn luôn luôn mới bởi vì đó là một kho tàng tài liệu lịch sử Việt Nam thế kỷ 19. Năm 1990, với sự bảo trợ của Đại học Yale, tác giả đã xuất bản cuốn sách này bằng nguyên văn tiếng Pháp với nhan đề: "Les missionnaires et la politique coloniale francaise au Viêt Nam, 1857 - 1914" Hai giai đoạn lịch sử khác nhau, hai ngôn ngữ ki-tô khác nhau. Bề trên của Nha Thừa Sai Paris, hiện thân của tiếng nói lương tâm bình thản trong giai đoạn thuộc địa, nhấn mạnh dây liên hệ nối kết sự truyền giáo với chính sách thuộc địa, trong khi các giáo chức ki-tô Pháp, ấm ức trong mặc cảm lương tâm của thời hậu thuộc địa, muốn làm trong trắng Nhà Thờ bằng cách đổ lỗi cho các quốc gia, kẻ duy nhất phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng tôn giáo để phục vụ chính sách thuộc địa. Đâu là sự thật ? Tìm hiểu sự thật lịch sử đâu có phải để kết tội ai hay để gây bất hòa giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Ngược lại, hiểu lịch sử chính là để đừng vấp nữa những sai lầm trong quá khứ - những sai lầm đến từ bên ngoài đã làm máu chảy giữa những người con của cùng dân tộc. Tôn giáo là thiêng liêng, và tự do tôn giáo là tự do căn bản của con người. Chính vì tôn trọng sự thiêng liêng đó mà mọi lạm dụng tôn giáo vì một mục đích khác, hoặc để độc tôn, cần phải đề phòng triệt để
Cao Huy Thuần (1937-2024) là người Pháp gốc Việt, hiện là giáo sư về ngành chính trị học tại đại học Picardie, Pháp. Ông sinh tại Huế, học đại học Luật Sài Gòn (1955-1960), dạy đại học Huế (1962-1964) trước khi qua Pháp du học.
Các tác phẩm đã xuất bản: - Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và Ta (Triết lý luật và tư tưởng Phật giáo)
(NXB TP Hồ Chí Minh, 2000)
- Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, 1857-1914
(NXB Tôn giáo, 2002)
- Từ Đông sang Tây (chủ biên cùng với Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính)
(NXB Đà Nẵng, 2005)
- Tôn giáo và xã hội hiện đại (NXB Thuận Hóa/Phương Nam, 2006)
- Nắng và Hoa (tái bản, NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2006)
Như tên, cuốn này nhằm trả lời cho câu hỏi: quan hê giữa giới giáo sĩ truyền giáo Kito Pháp và chính sách (xâm chiếm và cai trị) thuộc địa của Pháp đối với Việt Nam là gì?
Câu trả lời mà cuốn sách đã chỉ ra, với sức thuyết phục hoàn toàn, là giới giáo sĩ có ảnh hưởng cực lớn - thậm chí tới mức dẫn đạo - cho chính sách thuộc địa. Sức ảnh hưởng đó thể hiện trên cả 3 khía cạnh. Thứ nhất, các giáo sĩ là người đã tuyên truyền không mệt mỏi để lôi kéo một nước Pháp ngần ngại và dè dặt bước những bước đầu tiên trên con đường thuộc địa. Thứ hai, khi người Pháp đã đặt chân lên 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ, cũng giáo sĩ thừa sai đã, một mặt chống phá chính sách hòa bình của Pháp với triều Nguyễn, mặt khác kích động thù hận giữa người Lương và người Giáo để khiến Pháp, chịu áp lực phải bảo hộ cho những tín đồ Kito, không thể hài lòng ngồi yên ở Nam Kỳ. Nhờ lực lượng tín đồ đông đảo và trung thành cộng với những nỗ lực không mệt mỏi (điều mà ta thấy rất rõ trong những gì tổng giám mục ở Bắc Kỳ đã làm và vai trò của ông ta trong 2 lần biến loạn ở Bắc Kỳ), nước Pháp đã đặt được nền bảo hộ trên toàn An Nam chỉ với quân số ít ỏi vài ngàn lính. Thứ ba, cũng chính các thừa sai, bằng sức ảnh hưởng lớn lao của họ ở thuộc địa và cả ở chính quốc, đã làm thoát thai chính sách cai trị cứng rắn: xóa bỏ ảnh hưởng của Nho giáo và tầng lớp quan lại cũ vốn là những người yêu nước có ảnh hưởng và uy tín trong dân chúng; thay thế chữ Nôm và chữ Hán bằng chữ quốc ngữ để tiêu diệt ảnh hưởng của những nhà Nho chống Pháp; bổ nhiệm tối đa những con chiên và những người trung thành với nước Pháp (hoặc với giáo hội) vào các vị trí hành chính. Đồng thời, họ chỉ trích và tìm cách hạ bệ những vị toàn quyền Đông Dương chủ trương chính sách hợp tác với người An Nam bất kể tôn giáo của họ, bằng những chiến dịch bôi nhọ trên báo chí, bằng vận động hành lang ở chính quốc, thậm chí bằng kích động bạo loạn. Và ở điểm này, một lần nữa, những giáo sĩ đã chứng tỏ các phương thức của họ rất hiệu quả.
Từ phía chính quyền Pháp, ở thuộc địa hay ở chính quốc, luôn có sự chia rẽ giữa phe hung hăng và phe ôn hòa. Rất nhiều khi, phe ôn hòa nắm quyền và có ảnh hưởng, đã kháng cự trước sức mạnh của thừa sai. Khi chưa thiết lập thuộc địa đầy đủ, phe này chủ trương hòa bình và hợp tác với triều đình Huế. Khi Pháp đã chiếm được cả Đông Dương, phe này thực hiện chính sách hợp tác. Họ mở trường đại học, bổ nhiệm quan lại cũ, trao cho họ nhiều quyền hành, mở lại các kỳ thi hương hội đình, v.v. Nhưng luôn luôn, cho đến năm 1913, họ phải ra đi trong im lặng để lại Đông Dương đón chào một vị toàn quyền mới nhiệt tình ủng hộ chính sách của các giáo sĩ và lật đổ tất cả những người theo chính sách hợp tác đã làm. Vì vậy mà dù ta thầy một nước Pháp thường ngần ngừ kháng cự, cuối cùng nó vẫn tiến tới các chủ trương hung hăng của giáo sĩ. Ấy chính là bởi quyền lợi thuộc địa và quyền lợi truyền giáo quấn quýt với nhau. Người thuộc địa không thể tự mình gây dựng thuộc địa mà thiếu đi sức mạnh của Gia Tô giáo, vì đó là một sức mạnh cực kỳ lớn lao mà giáo sĩ đã gây dựng trong mấy thế kỷ, thể hiện trên số tín đồ đông đảo (ở Đông Dương và Thế giới Hán ngữ có lẽ chỉ đứng sau Trung Quốc) và trên lượng tài sản khổng lồ mà họ đã tước đoạt từ tay người bản xứ bằng những phương tiện bạo lực và bỉ ổi, chẳng hạn như, bắt cóc, tra tấn, chiếm đoạt hoa màu, chùa chiền và đất đai - những hành động đã được chỉ ra bởi báo cáo của các toàn quyền và khâm sứ.
Tạm ra ngoài lề, có một chi tiết thú vị về Đại học Đông Dương là nó được thành lập từ 1906 hoạt động được vài năm thì bị đóng cửa bởi sức ép của giới thừa sai và chỉ mở lại vào năm 1917 - tức là 10 năm sau đó. Chính qua chuyện này, ta thấy rõ 2 điều: sức mạnh của thừa sai và sự đảo cực liên tục của chính sách Pháp đối với thuộc địa.
Đó là nội trung trọng tâm nhất của cuốn sách - ảnh hưởng của giới thừa sai lên chính sách thuộc địa. Nhưng ngoài cái trọng tâm đó, ta còn thấy được thể hiện xuyên suốt của chính sách "chủ bại" (chủ hòa đã tệ, lại còn chủ bại!) của triều đình Huế; các đặc điểm kinh tế xã hội của Bắc Kỳ cuối thế kỷ 19; chính sách của thừa sai Tây Ban Nha ở phía bắc Sông Hồng khác biệt ra sao với chủ trương của các thừa sai Pháp. Ta cũng có thể thấy, với thái độ kinh ngạc, về vai trò của những biến cố nhỏ bé nhưng điên rồ, của vai trò cá nhân đối với lịch sử. Và có thể nhiều điều khác nữa ngoài cái trọng tâm ấy.
Vậy tác giả đã chứng minh những nội dung trên ra sao? Ông đã tìm tòi rất nhiều thư từ tài liệu được lưu trữ trong Thư khố Pháp, rất nhiều trong số đó chưa được công bố, trích dẫn lại nguyên văn và thậm chí toàn văn, để những tài liệu ấy nói lên tiếng nói của chúng một cách trung thực nhất. Ông cũng sắp xếp những cứ liệu ấy theo một trật tự thời gian hoặc trật tự logic, dẫn dắt chúng bằng lập luận của mình. Đến mức trong 2 phần đầu của cuốn sách nói về quá trình xâm chiếm Nam Kỳ và Bắc Kỳ, 2 phần mà trình tự thời gian là chủ đạo, tôi có cảm tưởng như mình đang xem một bộ phim lịch sử hết sức sống động và gay cấn. Chính vì điều đó mà tôi nghĩ có thể gọi Cao Huy Thuần là một nhà khoa học với thiên tư kể chuyện khác thường - nhưng tuyệt đối trung thực.
Tại sao công trình này đáng để đọc? Thứ nhất, tác giả cho biết rằng, có ít những công trình nghiên cứu quan hệ giữa truyền giáo và thuộc địa - vì đây là một chủ đề nhạy cảm. Thứ hai, đây là một công trình nghiên cứu lịch sự tuyệt vời, đã soi sáng một giai đoạn lịch sử rất biến động mà có lẽ các công trình khác còn rất rất xa mới đạt tới vì lý do cứ liệu. Thứ ba, vì nó cần thiết. Hiểu quá khứ là hiểu mình đến từ đâu, cần quan niệm thế nào, và cần đi về đâu.