Hôm nay tình cờ mà cậu phải đứng lâu giữa đồng, đứng rồi tự nhiên ngó chơi mấy việc của nông phu đương làm, cậu ngó một hồi sanh cảm, trí bắt đầu nghĩ đến sự sống của kẻ ở chốn thôn quê. Từ đứa nhỏ cỡi trâu kia, cho tới đám đàn bà cấy lúa nầy, tới mấy anh đàn ông đứng trục và nhổ mạ đó, mỗi người đều dãi nắng dầm mưa cả năm, mọi người đều cực thân nhọc xác tối ngày, mà coi bộ ai ai cũng vui vẻ hăng hái, cực mà chẳng hề than phiền, nhọc mà chẳng hề thối chí…
… Rõ ràng nông phu nước mình là hạng người vui vẻ mà chuyên cần lao, tận tụy với nghề nghiệp, sống thác với vườn ruộng, ai giàu sang mặc ai, ai khôn khéo mặc ai, miễn là mình an phận thủ thường, lòng bình tịnh, trí thơ thái thì thôi. Con người mà có đức tánh như vầy, thì sự sống tự nhiên vui vẻ khỏi buồn, khỏi lo, lại có thể giúp nhà thêm giàu, nước thêm mạnh…
Hồ Biểu Chánh (1885-1958), người làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc ấp thành nhất xã Bình xuân thị xã gò Công, tỉnh Tiền Giang).
Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn.
Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 73 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp.
Tác phẩm Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn là cuộc sống Nam Bộ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt của ông nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.
Câu chuyện kể về hội bạn bốn người Mai Lan Cúc Trúc (tương ứng với Xuân,Triều, Quế, Quang) từ quãng họ còn là những cô cậu trẻ tuổi chập chững bước vào đời, đến khi họ đã trưởng thành và hoàn thành tâm nguyện của mỗi cá nhân.
Xuân có vẻ như là nhân vật chính nhất, cũng là người có nội tâm phức tạp nhất trong hội. Nhơn nghĩa, chí lớn, tâm tư trong sáng, gia sản cậu đều có đủ, chỉ có một nỗi mình thấy cậu còn cứng nhắc và chưa thực sự hiểu rõ mùi đời. Đây là một trong những cuốn hiếm hoi của tác giả mà mình thấy các nhân vật không phải trải qua một tai ương khủng khiếp nào, nên quá trình trưởng thành của họ cũng chầm chậm và từ tốn theo mạch truyện.
Không có gì gọi là bất biến trên đời, chỉ có phù hợp không thôi. Câu này hoàn toàn đúng với cậu Xuân nhà ta.
Cái tấm lòng chân chất, thật thà, chịu thương chịu khó của những con người miền nam đi mỡ cõi là đây chứ đâu. Để có được cái gọi là "thiên nhiên ưu đãi" thì biết bao thế hệ đã bỏ công, bỏ của ra khai phá. Cái xứ muỗi bay vo ve, cá sấu, rắn rít đã cưu mang, nuôi sống bao thế hệ người Việt. Cái gọi là "điền chủ ác ôn" cũng đã bỏ công khai phá và nuôi sống biết bao nhiêu gia đình ở xứ nam kỳ. Một thế hệ bị lãng quên bởi lịch sử của những người chiến thắng!