“Nhưng còn có một yếu tố khác, đã khiến thơ Nguyễn Bính rung động lòng người trong nhiều thế hệ, đó là âm điệu. Bất cứ người Việt nào xa nước đã lâu mà không được trở về, tình cờ nghe thấy đâu đó một âm giai ngũ cung, trong lòng không khỏi gợn lên chút gì như tiếng sóng. Và những tiếng ru, tiếng ngâm, thường cũng gợi trong lòng họ những tiếng sóng ngầm. Thơ Nguyễn Bính, là một thứ âm thanh có thể gây ra trong lòng người Việt những tiếng sóng ngầm như thế…” (Nhà phê bình THỤY KHUÊ)
“Không ít sáng tác dân gian − một kho tàng nghệ thuật phong phú ở đồng bằng Bắc Bộ − đã nảy sinh trên cơ sở huyền thoại dai dẳng. Nó trở thành một bộ phận của đời sống người ta, vỗ về an ủi người ta. Và nó lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đến lượt mình, các sáng tác của Nguyễn Bính chính là bước tiếp nối cái mạch của người đi trước và nâng nó đến độ hoàn chỉnh, tức tạo ra cho nó một vẻ đẹp vốn chỉ có ở các vần thơ dân gian ưu tú nhất.” (Nhà phê bình VƯƠNG TRÍ NHÀN)
Nhằm giúp các bạn học sinh có một nền tảng kiến thức văn học phong phú, vững vàng, Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức biên soạn bộ sách Văn học trong nhà trường, với sự tham gia biên soạn, tuyển chọn, bình giảng của các chuyên gia uy tín trong lĩnh vực này. Ngoài giá trị tư liệu học tập, hi vọng bộ sách còn giúp bồi dưỡng thêm tình yêu văn học, khích lệ tư duy sáng tạo giúp người đọc có được cho mình những nhận định khách quan và hợp lí.
Nguyễn Bính sinh ngày 13-2-1918, tức mồng ba Tết năm Mậu Ngọ với tên thật là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).
Cha Nguyễn Bính tên là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, còn mẹ ông là bà Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá giả. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.
Bà Miện bị rắn độc cắn rồi mất năm 1918, lúc đó bà mới 24 tuổi. Để lại cho ông Bình ba đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới sáu tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ ba tuổi và Nguyễn Bính mới sinh được ba tháng. Đúng như câu thơ ông viết:
Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ
Mấy năm sau ông Bình cưới bà Phạm Thị Duyên làm vợ kế (bà sinh được bốn người con, hai trai hai gái).
Bà cả Giần là chị ruột của mẹ Nguyễn Bính, nhà bà lại giàu có, nên bà cùng ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của Nguyễn Bính và là cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn, đón ba anh em Nguyễn Bính về nuôi cho ăn học. Nguyễn Bính làm thơ từ thuở bé, được cậu Khiêm khen hay nên được cưng
Năm 13 tuổi Nguyễn Bính được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng với sáng tác:
...Anh đố em này: Làng ta chưa vợ mấy người ? Chưa chồng mấy ả, em thời biết không Đố ai đi khắp tây đông, Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây? Làm sao như rượu mới say, Như giăng mới mọc, như cây mới trồng ? Làm sao như vợ như chồng ? Làm sao cho thỏa má hồng răng đen Làm sao cho tỏ hơi đèn ? Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ? Làm sao ? anh khen em tài ? Làm sao ? em đáp một lời làm sao... ?
Trúc Đường thi đỗ thành trung (đíp-lôm) vào loại giỏi ở Hà Nội, rồi dạy học trong một trường tư thục ở Hà Đông, Trúc Đường bắt đầu viết văn và làm thơ. Ông đón Nguyễn Bính lên và truyền đạt cho Nguyễn Bính văn học Pháp. Cuộc đời của Nguyễn Bính gắn bó Với Trúc Đường cả về văn chương và đời sống.
Tác phẩm nổi bật: Chân quê, Lỡ bước sang ngang, Những bóng người trên sân ga, Tương tư, Viếng hồn trinh nữ, Cô hái mơ, Cô lái đò, Tiểu đoàn 307, Đêm sao sáng
Hoài Thanh - Hoài Chân nhận xét: “Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta”. Hoài Thanh không in thơ và hình như ông không làm thơ, nhưng những nhận xét đánh giá về thơ và các nhà thơ làm mọi người kính phục và nể trọng. Trong số những nhà thơ nổi tiếng, Hoài Thanh đã chọn một Nguyễn Bính để nhận xét “quê mùa như Nguyễn Bính”. Và anh thi sĩ quê mùa ấy sống mãi với thơ ca Việt Nam bằng những vần thơ lục bát dân tộc đằm thắm hóm hỉnh khiêm nhường mà chói lọi.
Thơ Nguyễn Bính phải nói là thực sự dễ đi vào lòng người, những áng thơ đẹp mà đẹp bình dị, đẹp gần gũi. Nó không phải cái đẹp đồng quê giản dị và chất phác như của Trần Đăng Khoa, cũng không phải kiểu thơ sống với đời sống theo cái cách của Thế Lữ,... Với mình, thơ Nguyễn Bính đẹp theo cái cách bàng hoàng. Bình dị mà lại bàng hoàng. Kiểu như đang viết những bài thơ đẹp mê mẩn nhẹ nhàng, dung dị; đùng 1 cái diễn biến nhân vật chết chóc tang thương. Cái đẹp đến từ cái buồn mới khiến cái đẹp nó đẹp rúng động làm sao. Nhưng trong cái đẹp đấy, mình cũng thấy cái bình dị, cái sự đời của những con nợ, cái đời của những người bình thường chẳng đạt khoa cử, của những bình rượu dưới trăng,...
Trích vài dòng thơ mình mê đắm đuối của Nguyễn Bính vào đây để nhớ :D
" Nàng đi, Hà Nội buồn như chết Hà Nội buồn như một nhỡ nhàng"
hay là "Hai đứa sống bằng hoa với rượu Sống vào trời đất, sống cho nhau"
đọc lại bản in mới vì bản in 198x đã tặng An mint đại đế từ dạo F2 cách ly ở nhà uống cafe bà An rất ngon. thơ Nguyễn Bính thơ quê tình quê. tuổi thơ lớn lên bên hàng rào chè mạn dâm bụt mực tím mồng tơi với con đường đất, nhưng lớn lên xa quê rồi trưởng thành nơi phố thị ồn ã, chả biết tình quê thấm đượm hồn quê thật thà mà chân chất nó như thế nào, thôi thì đọc thơ Nguyễn Bính. nhớ thư mẹ gởi cha những ngày còn yêu xa, mở đầu thư mẹ hay viết: "Hương quê,...". với con bây giờ tình yêu là thứ xa xỉ, nói gì dám đòi hỏi tình chân chất như tình nhà quê (:
Đọc cái làm nhớ mấy ngày cấp 3 chui vô thư viện mượn sách thơ Nguyễn Bính đọc. Hồi xưa có hiểu gì nhiều đâu, mà sao cứ thấy đa đã trong bụng. Giờ lớn đọc xong lại càng thấm thía hơn. Đẹp. Dịu. Nhẹ. Buồn. Thổn thức. Chân quê. Mê nhiều.
Thơ Nguyễn Bính mang phong cách mình thích: dịu dành như làn gió, có nét man mác buồn. Nếu như văn học thì mình thích giọng văn của Thạch Lam, thì trong thơ ca mình tìm được sự nhẹ nhàng tương tự trong những tác phẩm của Nguyễn Bính.