Sau khi giác ngộ và thành tựu trí tuệ viên mãn, Đức Phật đã dành 45 năm để truyền trao kinh nghiệm thực chứng của Ngài cho nhân loại. Một thành quả quan trọng từ công trình tu tập của Đức Phật là Ngài đã giác ngộ tất cả khổ đau và phiền não phát sinh trong tâm con người là do chúng ta không có được những hiểu biết đúng đắn về bản chất của thực tại, và không thấy rõ quá trình vận hành của nghiệp và nhân quả. Do đó, chúng sinh thường có suy nghĩ ích kỷ thúc đẩy những hành động sai lệch, rồi dẫn đến kết quả không thể tránh khỏi nhiều nỗi khổ cả về tinh thần lẫn thể xác. Những lời dạy của Đức Phật giúp tất cả chúng ta thoát khỏi mọi khổ đau do vô minh và kiến tạo hạnh phúc vững bền trong tâm.
Nhận ra rằng mọi hoàn cảnh bất thuận đều bắt nguồn từ tâm chấp ngã và ích kỷ, mục tiêu chính của toàn bộ giáo lý thâm sâu trong Đạo Phật có thể được thu về hai điểm cốt lõi: (1) nhổ tận gốc tâm chấp ngã và (2) khơi dậy và trưởng dưỡng tâm vị tha. Tuy mọi hành giả Phật giáo đều hướng đến hai mục tiêu này, Đức Phật đã vô cùng thiện xảo và bi mẫn khi nhận ra Ngài cần giảng dạy những khía cạnh khác nhau của giáo lý cho những đệ tử khác nhau, tùy vào căn cơ và thiên hướng riêng của từng người. Vì thế, với những người chủ yếu muốn giải thoát bản thân khỏi khổ đau của luân hồi, Đức Phật đã dạy họ những giáo lý nền tảng; những giáo lý này hình thành nên truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravada). Với những người có ước nguyện đạt giác ngộ viên mãn vì lợi lạc của mọi chúng sinh, Đức Phật đã dạy họ những giáo lý có thể đưa người tu đến Phật quả; những lời dạy này hình thành nên truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana).
Nếu ước nguyện của chúng ta là tu thành Phật quả để làm lợi lạc cho hết thảy chúng sinh hữu tình, ta cần phải thực hành lời Phật dạy thuộc truyền thống Đại thừa, trên nền tảng hiểu biết vững chắc về những giáo lý thuộc truyền thống Nguyên thủy. Người tu phải thực hành và lần lượt chứng ngộ lời Phật dạy thuộc hai truyền thống này, theo một thứ tự đúng đắn. Tuy nhiên, khi truyền trao giáo lý cho các đệ tử, Đức Phật đã không sắp xếp lời dạy của Ngài theo một trình tự thực hành cụ thể, mang tính hệ thống. Vì vậy, để có cái nhìn toàn cảnh về toàn bộ giáo lý thâm sâu trong đạo Phật và để xây dựng cho mình một trình tự tu tập hợp lý, chúng ta không những phải nghiên cứu lời dạy của Đức Phật mà còn phải học hỏi thêm từ những luận giải Phật pháp do những học giả đã chứng ngộ biên soạn , nhất là những học giả xuất thân từ Tu viện Nalanda. Lý do là đã có rất nhiều học giả thuộc truyền thống Nalanda đã chứng ngộ thâm sâu lời Phật dạy và từ đó đúc kết kinh điển của Đức Phật trong những bộ luận mang tính hệ thống cao, nêu rõ thứ tự tu tập, và dễ áp dụng.
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva), người biên soạn tác phẩm Nhập Bồ Tát Hạnh (Bodhicharyavatara), là một trong những học giả và hành giả Phật giáo lỗi lạc nhất xuất thân từ Tu viện lừng danh Nalanda. Tôn giả Tịch Thiên sinh ra trong một gia đình hoàng tộc vào thế kỷ thứ VII-VIII theo Tây lịch, ở vùng Saurashtra (Bình Đảo), thuộc bang Gujarat, miền Nam Ấn Độ. Cha của Ngài là vua Thiện Khải (Kalyanavarnam). Thuở chào đời Ngài được đặt tên là Tịch Khải (Shantivarnam). Ngay từ thời niên thiếu, Ngài đã diện kiến Đức Văn Thù và học hành tinh thông các luận thư đương thời. Khi sắp được lên ngôi vua, hoàng tử Tịch Khải đã bỏ trốn khỏi hoàng cung. Ngài đi đến vùng trung tâm để gia nhập Tu viện Nalanda và thọ giới xuất gia từ Viện trưởng Thắng Thiên (Jayadeva), được đặt pháp danh là Tịch Thiên (Shantideva). Ngài Tịch Thiên học hành tinh thông ba tạng kinh điển dưới sự chỉ dẫn của ngài Viện trưởng, đồng thời Ngài trực tiếp nghe và thực hành những giáo huấn Hiển Mật từ Đức Văn Thù. Đối với những người sơ học, ngài Tịch Thiên là một người chỉ biết ăn, ngủ và vệ sinh cá nhân, ngoài ra người ta chưa từng thấy Ngài tham gia các hoạt động tu học trong tu viện. Vì thiếu hiểu biết nên họ muốn thử thách Ngài bằng cách yêu cầu các tu sĩ đều phải lần lượt diễn thuyết kinh điển cho đại chúng cùng lắng nghe. Thế rồi, đúng vào dịp tháng Đức Phật thị hiện thần thông thì đến lượt ngài Tịch Thiên phải diễn thuyết kinh điển trước đại chúng học giả của tu viện Nalanda. Theo lời kêu gọi của đại chúng, Ngài phải thuyết những gì chưa từng được thuyết. Không chút lo sợ, ngài Tịch Thiên ngự trên pháp tòa cao và thuyết bản luận Nhập Bồ Tát Hạnh. Khi Ngài thuyết đến đoạn thuộc phẩm Trí Tuệ: “Khi điều thực, cả điều không thực…” thì thân Ngài được nhấc bổng lên khỏi pháp tòa và bay lên cao, biến mất vào trong hư không. Thân Ngài biến mất nhưng pháp âm của Ngài vẫn còn vang vọng liên tục đến khi bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh được thuyết xong. Ngoài Nhập Bồ Tát Hạnh, ngài Tịch Thiên còn để lại những bộ luận như: Tập Học Luận, Tập Kinh Luận, v.v…
Tác phẩm Nhập Bồ Tát Hạnh là một bản luận súc tích nhưng sâu rộng, giảng giải những điểm thực hành quan trọng thuộc truyền thống Đại thừa, nhấn mạnh lợi ích của Tâm Bồ đề và cách thực hành khơi dậy và trưởng dưỡng Tâm Bồ đề. Bản luận được chia thành mười phẩm, giảng ...
His Eminence Khangser Rinpoche was born in Kathmandu, Nepal, in May 1975. At five years of age, a search party positively identified him as the reincarnation of the seventh Khangser Rinpoche. He is one of three high lamas responsible for recognizing the rebirth of the spiritual leader of Tibet, His Holiness the Dalai Lama. Khangser Rinpoche completed his preliminary study of Buddhist philosophy at the Institute of Buddhist Dialectics in Dharamshala, India. He later went on to advanced Buddhist studies in sutra and tantra at Sera Jey Monastery and Gyuto Tantric Monastic University. It was there he earned the geshe lharampa degree and a doctorate degree in tantra, both with the highest honors in the top division. Khangser Rinpoche presently serves as vice abbot of Gyuto Monastery and as the founder and administrative head of Thangkar Dechen Choling Monastic Institute. This institute is both a monastery and a school, and generously provides food, housing, and education in both Dharma and contemporary Western curricula to over eighty young monks in Nepal. The entire student population comes from impoverished conditions, many of whom are orphans. Khangser Rinpoche has established many Dipkar centers around the globe, spearheading philanthropic efforts such as providing free food to those in need. He also established the Dipkar Vajrayana Institute to offer free Dharma education to all who wish to learn. Khangser Rinpoche is considered one of the great Buddhist teachers of the modern age. He has dedicated his entire life to providing spiritual medicine for what ails a broken spirit. He believes his mission is to help as many suffering beings as possible.
A luminous offering from my teacher, H.E. Khangser Rinpoche. This commentary on Nhập Bồ Tát Hạnh (The Way of the Bodhisattva) opened my heart wider than I expected. Rinpoche doesn’t just explain Shantideva’s words—he breathes life into them. His voice is clear, grounded, and utterly devoted to the welfare of all beings.
One of the teachings that pierced through all layers of self-protection was: “Nếu mình có thể chịu đựng những khổ đau nhỏ hôm nay, thì sẽ tránh được những khổ đau lớn hơn trong tương lai.” (“If we can endure the small pains today, we may avoid the greater suffering tomorrow.”) That line is still with me—especially on days when I want to run from discomfort instead of greet it with compassion.
Another teaching that I return to again and again: “Không có gì cao quý hơn một trái tim luôn muốn người khác được hạnh phúc.” (“There is nothing more noble than a heart that always wishes happiness for others.”) Rinpoche reminds us that this isn’t an abstract idea—it’s a real, daily practice. A way of being in the world that changes everything.
I am endlessly grateful for this book and the lineage it carries. May its wisdom continue to spread, and may all who read it be inspired to live with courage, kindness, and vast compassion.