Trong ngành chế tạo thiết bị thường dùng nhiều loại cơ cấu, truyền động, truyền dẫn khác nhau, như cơ khí, thủy khí, điện và điện tử. Mỗi loại đó đều có những ưu, nhược điểm riêng. Ngày nay, trong thực tế lại có xu thế tích hợp chúng để hỗ trợ nhau, như thế nhiều khi sẽ phát huy được một vài ưu điểm và khắc phục được một vài nhược điểm của các loại riêng biệt, vì thế gọi là xu thế “tích hợp cộng năng”.
Đối với loại kết cấu thuần cơ khí tác giả đã biên soạn “Sổ tay 1269 cơ cấu máy và dụng cụ chọn lọc”, do Nhà xuất bản Xây dựng ấn hành năm 2014. Lần này tác giả chọn giới thiệu “Cơ cấu tương tác cơ - điện - thủy - khí” như một phần kế tiếp và là phần các cơ cấu được sử dụng rộng rãi hơn cả nhiều lĩnh vực khác nhau trong sản xuất và đời sống.
Ta có thể gặp ở đây các cơ cấu rơ le trong khí cụ với chức năng khống chế, bảo vệ và điều chỉnh khá nhiều các thông số cơ - lý: thời gian, công suất, áp suất, tốc độ, lưu lượng, nhiệt độ... không chỉ của từng đối tượng khảo sát riêng biệt mà còn có cả cơ cấu thiết lập sự đồng bộ thông số giữa các cá thể để có thể phối thuộc với nhau.
Về các cơ cấu đo lường và thí nghiệm, cuốn sách cũng giới thiệu với bạn đọc: Các đồng hồ và dụng cụ đo kiểm và chỉ bảo các thông số cơ - lý nói trên và cả các thông số khác như lưu lượng, đo độ biến dạng, độ chuyển vị, xác định tỉ trọng, khá nhiều cơ cấu làm chức năng cảnh bảo cho người vận hành tình trạng mất an toàn của thiết bị hoặc cơ cấu tự động xử lý an toàn khi có sự cố khẩn cấp xảy ra.
Trong lĩnh vực chế tạo, ta sẽ gặp các cơ cấu kẹp chặt các tư thế: Kẹp trong, kẹp ngoài, kẹp tự định tâm, kẹp đơn nguyên, kẹp nhóm chi tiết, cơ cấu chép hình, cơ cấu truyền - dẫn động với yêu cầu chế độ làm việc khác nhau, cơ cấu điều khiển, cơ cấu điều chỉnh trực tiếp và từ xa; các cơ cấu phân loại, tuyển chọn và cấp phôi - liệu của các loại hình phôi liệu khác nhau. Các hình mẫu của cơ cấu phối thuộc, tương tác cơ điện thủy khí được rút ra từ thực tiễn các thiết bị, công cụ sản xuất và gia dụng hiện hành.
Theo xu thế “tích hợp cộng năng” nói trên rất nên lưu ý đến các vấn đề của cơ điện tử hiện đại. Nên hiểu phần cơ điện thủy khí là phần nòng cốt của các sản phẩm khác, thì cần nhấn mạnh rằng, phần mềm tin học chính là phần chủ đạo trong công việc sáng tạo của chúng. Hiện nay đang phát triển mạnh các phương pháp tạo ra phần mềm nhúng, trong đó công nghệ PSoC nghĩa là “hệ thống tái lập trình trên một Chip”. Theo công nghệ này có thể nói các phần tử sẵn có trong Chip chuyên dụng để thực hiện các thao tác của thiết bị sản phẩm. Chương trình phần mềm này được tái lập trình lại theo yêu cầu thay đổi các thao tác của thiết bị. Như vậy, chỉ gói trọn trên một Chip có thể thực hiện được chức năng một thiết bị điều khiển, đáp ứng sự hoạt động tổng thể của sản phẩm cơ điện tử. Công nghệ này rất thuận lợi cho các cán bộ kỹ thuật chế tạo thiết bị và có xuất thân từ các ngành cơ khí.
Cuốn sách này là tài liệu tra cứu và tham khảo rất bổ ích cho các cán bộ kỹ thuật ngành cơ khí chế tạo và các ngành cơ khí khác. Nó cũng có thể gợi mở cho người đọc những tìm tòi khám phá trong sáng tạo, chế tạo thiết bị. Vậy xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
Nguyễn Văn Huyên (1905-1975) là một Giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam trong thời gian dài nhất với 28 năm, 350 ngày.
Ông được giới chuyên môn ở Việt Nam đánh giá là người đã cùng học giả Đào Duy Anh đặt nền móng cho nghiên cứu văn hoá, văn minh Việt Nam. Các nghiên cứu của ông góp phần khẳng định người Việt Nam có tín ngưỡng của riêng mình thể hiện qua việc thờ thành hoàng như Phù Đổng, Tản Viên, Chử Đồng Tử. Thông qua các nghiên cứu với phương pháp và cách tiếp cận khoa học của Nguyễn Văn Huyên về văn học dân gian, lễ hội truyền thống, kiến trúc, địa lý học lịch sử, cấu trúc giai tầng trong xã hội, người ta có thể nhận thấy tinh thần, tâm lý dân tộc Việt Nam. Nhà sử học Trần Quốc Vượng đã viết: "Ông, là một nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại đầu tiên ở nửa đầu thế kỷ 20 này"..."Giới nghiên cứu trẻ/già hôm nay còn được học và phải học ở ông nhiều về phương pháp luận và các phương pháp tiếp cận những sự kiện nhân văn, vừa cụ thể vừa tổng thể."
Ông có những đóng góp quan trọng và quyết định trong xây dựng nền giáo dục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôn chỉ và tâm huyết của ông trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục ấy được Nguyễn Văn Huyên thể hiện qua bài diễn văn nổi tiếng đọc trong lễ khai giảng năm học đầu tiên của Đại học quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945: "Trong buổi lễ hôm nay, anh em giáo sư và sinh viên chúng tôi muốn tỏ rõ cho thế giới biết rằng trong giờ phút nghiêm trọng của tiền đồ Tổ quốc này, dân tộc Việt Nam, ngoài công cuộc đấu tranh bằng xương máu trên chiến địa cũng nỗ lực tham gia vào công cuộc tiến triển văn hoá của nhân loại. Chúng tôi muốn rằng nền đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng của Việt Nam. Chúng tôi muốn nó làm một thành luỹ để trường kỳ kháng chiến phục hồi hoàn toàn lãnh thổ, và giải phóng tinh thần cho dân tộc chúng tôi là một dân tộc văn hiến có ngoài nghìn năm lịch sử độc lập và đã tự gây nên một nền văn minh đặc sắc trên ven bể Thái bình dương này."
Ông để lại một số công trình, bài nghiên cứu về văn hoá, chủ yếu là văn hoá Việt Nam, trong đó đáng chú ý là:
Sự thờ phụng thần thánh ở nước Nam (1944). Văn minh nước Nam (1944). Toàn tập Nguyễn Văn Huyên (2000).