Formosa: Cung-Cầu, Trục Trặc của thị trường và Tín nhiệm đã mất



0. Kinh tế Môi Trường là gì?
Cách đây 2 năm, tôi biết Ý Nhật trong một hội thảo cho giới trẻ về phát triển bền vững. Lần đó, trong phần về Kinh Tế Môi Trường (KTMT), có một chuyện rất buồn cười là khi các bạn trẻ ở các ngành khác (như kỹ sư, môi trường, công nghệ,... nói chung không liên quan đến Kinh Tế) tham gia thảo luận, đa số các bạn đều nhìn “Kinh Tế” như phe phản diện. Trong lần ấy, tôi thấy em là người băn khoăn nhiều nhất rằng: “KTMT là gì?” 
Sau đó, tôi lại bắt gặp em trong rất nhiều hội thảo khác nhau về môi trường. Nơi nào em đến cũng đem theo sự trăn trở - "Rốt cuộc KTMT là gì?". Đa phần mọi người đề cập đến KTMT ở Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR – Corporate Social Responsibility), ở các quy định rằng buộc, về làm sao để Kinh Tế (KT) và Môi Trường (MT) chung sống hòa thuận với nhau. Người ta nói về KT như một thứ cần chế ngự và dung hòa, nhiều hơn một công cụ để bảo vệ môi trường. Trong một quán nước, Nhật bảo với tôi: “Lúc nào em cũng muốn tìm hiểu về KTMT, nhưng chưa bao giờ em có được câu trả lời thỏa đáng và rõ ràng. Lúc nào em cũng tin KTMT là điều gì đó nhiều hơn những điều mọi người vẫn nói”.
Nỗi trăn trở của em, từ đó, cũng lan luôn sang tôi. Nhưng lúc đó, tôi chưa đủ kiến thức để giải đáp cùng em. Dù vậy, 2 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ. Dù có thể bây giờ, Nhật đã chọn một mối bận tâm khác cho mình, thì tôi vẫn cứ nhớ. Đến khi sang London học về Kinh Tế và Chính Sách, bài tiểu luận đầu tiên tôi viết cũng về vụ gian lận khí thải của Volkswagen (2016). Càng học hỏi, lời giải đáp tôi muốn dành cho em càng rõ ràng. Nhưng rồi, sự thú vị này cứ chắp nối sự thú vị kia, và mãi tôi cứ thấy có quá nhiều thứ tôi chưa học. Rồi, tôi cứ ngần ngừ mãi chưa viết ra.Nhân lúc đang xôn xao về vụ chất thải Formosa ở Vũng Áng, tôi nghĩ đã đến lúc viết bài này, để dành cho:
1.       Các bạn học Kinh Tế và Kinh Doanh, đã từng biết qua về đường cung-cầu và sự vận động của thị trường. Năm nhất ĐH, khi học những lý thuyết này, tôi đã ngủ dài trong giảng đường. Sở dĩ tôi ngủ vì tôi thấy không thực tế. Mà không thực tế thì rất khó hiểu và cũng chẳng rõ cố gắng hiểu để làm gì. Cách hiệu quả nhất để bớt lười học, là hiểu được ý nghĩa của điều mình đang học. Qua bài viết này, tôi muốn tận dụng Vụ Formosa như một ví dụ thực tế để ứng dụng các kiến thức kinh tế phân tích và giải thích. Khi thấy nó thiết thực, hy vọng các bạn SV mới sẽ không ngủ hoài như tôi.
2.       Dù vậy tôi vẫn sẽ cố gắng giải thích các kiến thức kinh tế nền tảng một cách đơn giản nhất để những ai chưa từng học qua vẫn có thể hiểu được. Nếu bạn có thể tranh luận về các vấn đề xã hội (dù không học xã hội học), tranh luận về chính trị (dù không học chính trị học), thì tôi hy vọng bạn cũng có thể tranh luận mọi thứ bằng những kiến thức kinh tế (dù chưa học qua bao giờ). Tôi tin rằng nhiều bạn sẽ hứng thú với việc tìm hiểu một cách tư duy mới.
3.       Cuối cùng, xin dành bài viết cho Ý Nhật, người đã lan truyền cho tôi nỗi trăn trở của em. Dù kiến thức vẫn có hạn, tôi hy vọng có thể giải đáp cho em phần nào về: KTMT là gì?
Đây không phải một bài viết khoa học, mình sẽ cố gắng đơn giản hóa và giải thích một cách dễ hiểu nhất cho nhiều người hiểu nhất.
1. Mô hình Cung – Cầu và Trục trặc thị trường
Khi nói về thị trường, như các bạn đều đã biết, sẽ có sự trao đổi giữa người bán (Cung cấp) và người mua (Nhu Cầu). Hành vi trao đổi mua bán, nói cho đơn giản, được phân tích trên 2 yếu tố: Giá cảSố Lượng. Ta có thể “đồ thị hóa” cung và cầu như trong Hình 1.
Hình 1.1, đường cầu xổ từ “cao – bên trái” xuống “thấp – bên phải”. Hình dạng này của đường cầu có thể giải thích rằng: Khi giá của một mặt hàng cao (Giá 1), số lượng được mua sẽ thấp (SL 1, tương ứng). Khi giá giảm xuống thấo (Giá 2), nhiều người sẽ có khả năng mua hơn, tương ứng SL2 > SL1.
Hình 1.2, đường cung ngược lại từ “thấp – bên trái” lên “cao – bên phải”. Nghĩa là giá cao (Giá 1), người ta sẽ muốn bán nhiều (SL 1). Còn giá xuống thấp (Giá 2), thì người ta muốn bán ít hơn (SL2 < SL1)

Điểm cân bằng (equilibrium) là nơi đường Cung và đường Cầu cắt nhau. Nghĩa là: Giácung = Giácầu = Giácb và SLcung = SLcầu = SLcb. Nói cho nôm na giản dị, cứ tưởng tượng như bạn đang đi chợ. Bạn sẽ “trả giá” từ thấp lên cao, người bán cũng “nói thách” từ cao xuống thấp. Cho đến khi giá bạn trả bằng giá người bán chịu thì giao dịch sẽ diễn ra.
Trong thị trường hoàn hảo, mọi thứ sẽ vận động để hướng về điểm cân bằng (Hình 2) cũng là điểm mà nền kinh tế sẽ hiệu quả nhất với sản lượng tối ưu. Định nghĩa hiệu quả ở đây có nghĩa là: “Cả nhà đều vui”, ai cũng có lợi và không phải chịu bất công nào. Mọi thứ diễn ra một cách tự nhiên và không cần bất kỳ sự can thiệp nào, như thể có “một bàn tay vô hình

Thực tế thì… thị trường không hoàn hảo. Nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, khiến cho nền Kinh Tế không nằm ở điểm cân bằng và sản lượng tối ưu nữa. Và ở một điểm khác điểm cân bằng/sản lượng tối ưu, sẽ có một bộ phận nào đó trong xã hội chịu mất mát – thiệt thòi.
Người ta gọi đó là: Market Failure, mình tạm dịch vui vui là Trục Trặc của Thị Trường.Và, khí thải/chất thải/tác động môi trường là một trong số những trục trặc đó.
2. Trục trặc với chất thải
Thị trường hoàn hảo mà ở đó “Bàn tay vô hình” dẫn dắt mọi thứ hiệu quả và tối ưu, dựa trên một điều kiện là: Việc tiêu xài/sản xuất của mỗi cá nhân không ảnh hưởng đến người khác. Việc giao dịch giữa người mua và bán không ảnh hưởng đến bên thứ ba.
Ví dụ, bạn ăn bánh mì, bạn thấy ngon, bạn no. Việc đó không ảnh hưởng đến người khác. Chi phí bạn bỏ ra là tiền mua ổ bánh mì. Thế giới vẫn bình yên, mọi sự vẫn bình thường.
Nhưng, khi bạn hút thuốc, khói thuốc lan tỏa ảnh hưởng đến sức khỏe của người xung quanh. Chi phí để hút thuốc đối với bạn là tiền mua điếu thuốc, nhưng chi phí thật sự phải tính cả tiền làm nguy hại đến sức khỏe của người khác. Vì bạn bỏ qua khoản chi phí này (chi phí ngoại lai - External Cost), nên việc xả khói thuốc sẽ “rẻ” hơn. Giá bạn chịu ở mỗi mức số lượng tiêu thụ sẽ thấp hơn, đường cầu sẽ cao hơn (Hình 3.1) và ở điểm cân bằng mới, bạn hút nhiều hơn mức bạn nên hút (Trục trặc: SL > SLtối ưu).
Một ví dụ tốt là việc đọc sách. Khi bạn đọc sách, bạn được thư giãn và trở nên trí tuệ hơn. Đó là lợi ích của bạn. Nhưng bạn không tính đến lợi ích của những người khác, khi sự hiểu biết của bạn sẽ được lan tỏa sang cả những người xung quanh. Như vậy, lợi ích thực sự của việc đọc sách bao gồm lợi ích cho bản thân và lợi ích cho người khác. Khi bạn bỏ qua lợi ích cho người khác, bạn sẽ thấy lợi ích của việc đọc sách “ít” đi một chút. Giá bạn phải bỏ ra trở nên “đắt hơn” một chút ở mỗi mức số lượng, đường cầu của bạn nằm thấp hơn (Hình 3.2) và bạn không đọc sách nhiều như mức bạn nên đọc (cũng là trục trặc SL < SLtối ưu).




Kinh Tế học gọi đó là Externality, các sách giáo khoa Kinh Tế VN dịch là: Ảnh Hưởng Ngoại Lai. Đó là khi cái giá mà cộng đồng phải gánh chịu (Social Cost) nhiều hơn cái giá mà mỗi cá thể bỏ ra (Private Cost). Tương tự với trường hợp lợi ích, Social Benefit > Private Benefit, nhưng mình sẽ không tập trung trong bài viết này (hẹn một bài khác, về Giáo Dục chẳng hạn).
Trở lại với vụ Formosa, nhưng vậy rõ ràng việc xả chất thải ra biển gây ô nhiễm môi trường, đầu độc tôm cá sẽ gây ra một cái giá rất lớn (Chi phí ô nhiễm), ảnh hưởng đến rất nhiều người trên một phạm vi lớn lãnh thổ. Lớn đến mức không thể bỏ qua, nhưng chi phí này được gánh chịu bởi người dân, trên bảng tài chính-kế toán của công ty không hề có loại chi phí này.
Chi phíxã hội = Chi phísản xuất + Chi phí ô nhiễm
Theo đúng câu “Cha chung không ai khóc”, đa số chúng ta luôn hành động dựa trên lợi ích-chi phí của bản thân mà ít suy nghĩ đến hậu quả gây ra cho người khác. Cũng tương tự như việc xả rác, hút thuốc, ta nhìn những việc mình làm ở góc độ cá nhân và chi phí cá nhân nhiều hơn. Chính vì thế, hành động của chung ta không hiệu quả (Inefficiency): Sản xuất những thứ xấu nhiều hơn mức tối ưu và tiêu thụ những thứ tốt ít hơn mức cần thiết.
3. Giải quyết bằng công cụ Kinh Tế
Như vậy giải quyết vấn đề thế nào? Tư duy một cách đơn giản và logic, làm sao để đưa chi phí mỗi cá nhân chịu lên ngang bằng với giá xã hội phải chịu, hay nói cách khác biến giá của ảnh hưởng ngoại lai (External cost) thành giá của mỗi cá nhân (Internalize).
Một công cụ Kinh Tế phổ biến là: THUẾ, như trong Hình 4. Ta đưa đường cầu trong hai trường hợp về lại đường cầu tối ưu, bằng cách nâng/hạ giá tiêu dùng bằng thuế. 


Ở thuốc lá, ta đánh thuế tiêu thụ đặc biệt: Thuế = Chi Phíngoại lai Tương tự, để khuyến khích đọc sách ra có thuế “âm”, hay người ta hay dùng cụm Trợ Giá (Trợ Giá = Lợi íchngoại lai). Trong thực tế, chúng ta có Trợ Giá trong nhiều mặt hàng (Giáo dục), nhưng chưa có cho sách (Ước gì có nhỉ?!)

Trong bài viết, mình minh họa ảnh hưởng ngoại lai và công cụ thuế trên hút thuốc và đọc sách, và thiên về hướng người tiêu dùng (tác động lên đường cầu). Trong câu chuyện của Formosa và các trường hợp tương tự, chi phí ngoại lai và công cụ thuế sẽ tác động lên phía sản xuất (nghĩa là "sửa" đường cung). Mình sẽ không vẽ đồ thị cho đường cung, dành "đất" cho bạn nào muốn "thử".

Khoảng thuế tăng thêm từ các sản phẩm có tác động xấu (demerit goods) sẽ được đem để khắc phục các hậu quả hay đầu tư cho phúc lợi chung. Như vậy có thể hiểu vai trò của thuế là để phân phối lại, đánh thuế chỗ cần bớt để bù đắp cho những chỗ cần thêm, phân phối tài sản từ nơi ít hiểu quả đến nơi hiệu quả hơn. Vai trò của nhà nước là tìm ra những chỗ hiệu quả và kém hiệu quả, và xác định mức chi phí/lợi ích ngoại lai để đặt mức thuế phù hợp.
Mình cho rằng đây là một công cụ rất đặc thù Kinh Tế, dựa trên lý thuyết cung-cầu. Vậy công cụ này nằm ở vị trí nào trong số rất nhiều công cụ để giải quyết? Phân tích cụ thể trong trường hợp chất thải/khí thải từ nhà máy.
Công cụ chế tài, từ đặt định mức đến cấm hoàn toàn (thuộc khối ngành Quản Lý)Điểm mạnh của công cụ này là đảm bảo về mặt tác động vì đặt ra một mức tối đa chất thải từ nhà máy. Nhưng hạn chế là thực tế khả năng về công nghệ kỹ thuật có cho phép “xanh” và “sạch” hoàn toàn không? Việc đặt mức giới hạn hoặc cấm hoàn toàn, đồng nghĩa với việc cắt giảm sản xuất, và rất nhiều người mất việc ảnh hưởng đến gia đình con cái. Đây là giải pháp hơi mang hơi hướng “hoàn hảo”, sẽ phù hợp trong dài hạn khi nền sản xuất đã có những tiến bộ nhất định để đáp ứng yếu tố “xanh”. Còn trước mắt... những công nhân vẫn cần việc làm.
Công cụ về giáo dục (thuộc khối ngành Xã Hội Học)Đây là một giải pháp cần thiết không cần bàn cãi gì thêm, và cần tiến hành song song với các giải pháp khác. Điểm mạnh là tính bền vững, nhưng điểm yếu là cần thời gian.
Công cụ về cải tiến kỹ thuật (thuộc khối ngành Kỹ Thuật)Tương tự như công cụ giáo dục
Công cụ Kinh Tế (Cụ thể: Thuế)Thuế ở đây có 2 ý nghĩa: Một là, Thuế làm cho việc xả chất thải trở nên "đắt đỏ" hơn, làm hạn chế hành vi gây ô nhiễm môi trường. Hai là, từ thuế thu được có thể đầu tư cho công cụ giáo dục và công cụ cải tiến kỹ thuật bên trên. Cả 2 công việc đều cần vốn, nhưng ít doanh nghiệm quan tâm, rất cần sự đầu tư, hỗ trợ của nhà nước. Ngoài ra, điểm mạnh của công cụ này là có tính tức thời, phù hợp là một giải pháp trong ngắn hạn để chờ đợi thời điểm phù hợp cho việc “xanh hoàn toàn”. Khác với việc Giáo Dục đòi hỏi sự kiên nhẫn và tác động từng nhóm người một và trông cậy vào ý thức của mọi người, công cụ Kinh Tế tạo ra một sự thay đổi đồng bộ, thay đổi hành vi bằng việc đánh vào túi tiền của họ.
Điểm hạn chế, là cần sự nghiêm túc và minh bạch trong quản lý và theo dõi.
4. Vai trò của nghiên cứu Kinh Tế
Quay lại câu hỏi “Kinh Tế Môi Trường” là gì? Không chỉ có môi trường, chúng ta còn có Kinh Tế Giáo Dục, Kinh Tế Sức Khỏe, Kinh Tế Tài Nguyên… Tuy nghiên cứu ở các ngành rất khác nhau, nhưng đặc điểm chung, nói nôm na, là: Đi Đo Đạc. Đo đạc sự hiểu quả của các hoạt động Kinh Tế, sự hiệu quả của các chính sách, sự hiệu quả của các quyết định "to bự".
Đo đạc và thiết kế công cụ khắc phục trục trặc thị trườngTrong công cụ Thuế đề cập bên trên, nhiệm vụ của các nhà kinh tế là đi đo đạc các tác hại mà người khác phải gánh chịu, gồm cả sức khỏe, tài nguyên, nguồn thu nhập, từ trước mắt cho đến lâu dài. Từ khoản chí phí xã hội gánh chịu, mức thuế được kiến nghị. Sau khi công cụ thuế đã được áp dụng, các nhà kinh tế lại đi đo đạc tiếp xem thị trường đón nhận giải pháp đó thế nào, cần chỉnh sửa thêm bớt chỗ nào.
Phân tích Hiệu Quả Kinh Tế: Lợi ích – chi phí (Cost and Benefit Analysis)Cũng giống như một doanh nghiệp, khi nhà nước quyết định ban hành một chính sách hay thông qua một quyết định thi công, làm đường, mở nhà máy, trước hết cần phân tích lợi ích và mất mát. Ví dụ, việc xây một nhà máy, cái lợi là tăng GDP, tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, tạo ra sản phẩm cho tiêu thụ, tạo ra của cái vật chất cho sự phát triển. Nhưng đồng thời cũng có cái giá, như chi phí thi công, chi phí quản lý, tác động đến môi trường, tác động đến xã hội. Sự khác biệt của một phân tích Kinh Tế với một phân tích Kinh Doanh, là trong Kinh Tế, các yếu tố không nằm trên bản kê tài chính, không có giá trị thị trường như sức khỏe, sinh mạng, môi trường, sự thoải mái của người dân đều được tính đến. Tính cả trong ngắn hạn và trong dài hạn, các nhà kinh tế đưa các lợi ích và chi phí trong tương lai về hiện tại bằng cách nhân cho nó một hệ số hoán đổi (discounting rate). Giống như từ tiền Việt sang tiền Đô có tỷ giá hoán đội, thì tiền của tương lai thành tiền ở hiện tại cũng có tỷ giá riêng.
Bất kỳ việc đo đạc nào cũng cần đơn vị, đơn vi để đo giá trị trong Kinh Tế là tiền. Các nhà kinh tế sẽ có những kỹ thuật khác nhau để ước tính các lợi ích và chi phí và cho nó một giá tiền (kể cả khi nó không thể mua bán trên thị trường). Cộng hết lại, xem cuối cùng mình được âm hay dương tiền từ một quyết định.
5. Tín nhiệm đã mất?
Thiếu người đo đạc
Nếu như các dự án đã được duyệt mà sau đó nảy sinh các vấn đề, thì có lẽ là vì thiếu sự đo đạc lợi ích – chi phí trước khi chấp thuận. Có thể là không hề đo đạc, hoặc có thể đo cho có, hoặc có thể đo mà thiếu (Khả năng lớn là bỏ qua các tác động môi trường và xã hội), hoặc đo đạc đàng hoàng nhưng người ra quyết định không hề cân nhắc đến.
Mình vừa nói có khả năng lớn là các tác động môi trường và xã hội bị bỏ qua. Điều này có thể vì người đo cũng không hề quan tâm đến, hoặc có quan tâm nhưng không thể đưa ra ước tình trong báo cáo vì không đủ khả năng (bao gồm cơ sở thông tin, nguồn lực đển tiến hành nghiên cứu và cả giới hạn về mặt trình độ).
Thiếu cả về nhân lực (chảy máu chất xám và cũng không nhiều người chọn theo ngành nghiên cứu kinh tế - chính sách), thiếu cả về hỗ trợ của nhà nước để tiến hành những nghiên cứu thật sự có ảnh hưởng và mang tính nền tảng. Mọi nghiên cứu và phân tích hiệu quả kinh tế đều cần dựa trên các nghiên cứu trước. Ví dụ, cần có một nghiên cứu từ trước về tác động của nhà máy đến tài nguyên biển và sinh kế ngư dân, cụ thể mất mát đó định lượng là bao nhiêu, thì khi đo lường hiệu quả kinh tế  cho một dự án nhà máy, người ta mới có cơ sở để ước tính. Những nghiên cứu quan trọng và lớn như vậy không thể tiến hành đơn lẻ, trong phạm vi trường ĐH, bằng ngân sách của trường ĐH mà cần đầu tư lớn của nhà nước. Cuối cùng là thiếu sự định hướng. Các nghiên cứu Kinh Tế ở Việt Nam không hề ít, nhưng dùng được thì không nhiều, đặc biệt các kinh tế mang tính định lượng.
Cá nhân mình, đang làm khóa luận liên quan đến Hiệu Quả Giáo Dục, có đề cập đến Việt Nam, và chính mình cũng thấy khốn đốn vì quá thiếu số liệu thống kê và các nghiên cứu nền tảng được tiến hành từ trước. Nhiều khi rất muốn làm về Việt Nam mà thấy quá bức xúc vì sự thiếu thốn dữ liệu.
Tín nhiệmNói ra thì buồn, như sự thật là tín nhiệm của người dân dành cho nhà nước ta quá thấp. Trong bối cảnh tín nhiệm thấp, thì bất kỳ chính sách hay quyết định nào của nhà nước dù đúng hay sai, đều bị nghi ngờ và không phát huy được tác dụng của nó. Vì sao lại mất tín nhiệm, thì hẳn là cần một câu trả lời dài, mình sẽ không đề cập trong bài viết này.
Sự Minh Bạch và Nghiên cứu độc lậpMột trong những giải pháp ngắn hạn để khôi phục tín nhiệm (ở chừng mực nào đó) là sự công khai minh bạch thông tin và hướng giải quyết. Những câu trả lời và giải pháp hợp lý, thỏa đáng, kịp thời hết sức cần thiết. Dài hạn hơn, một giải pháp để khôi phục minh bạch là đầu tư và tạo lập các cơ quan nghiên cứu độc lập (không thuộc nhà nước, không chịu sự chi phối của nhà nước). Các cơ quan này sẽ tiến hành những đo đạc độc lập và cung cấp thông tin cho đại chúng. Đây vừa là một giải pháp làm giàu thêm cho dữ liệu nghiên cứu nền tảng về Kinh tế ở Việt Nam, vừa kiểm soát và đo đạc các hoạt động kinh tế, vừa “vớt vác” về mặt tín nhiệm.
6. Kết
Trong bài viết này, mình đã phân tích vụ chất thải Formosa trên nền tảng Kinh Tế căn bản là cung-cầu và trục trặc thị trường do ảnh hưởng ngoại lai. Từ đó, mình đề cập đến công cụ Kinh tế để giải quyết vấn đề (cụ thể ở đây là Thuế). Nhằm giúp các bạn hiểu rõ hơn về tư duy Kinh Tế, mình có so sánh vị thế của công cụ kinh tế so với các công cụ khắc trong việc giảm ô nhiễm.
Cuối cùng, mình nhắc đến các nhà Kinh tế như người đo đạc để thiết kế các công cụ, cũng như cung cấp thông tin về lợi ích – chi phí của mỗi quyết định/chính sách/dự án. Để cuối cùng đi đến một kết luận là: Nhà nước cần đầu tư, định hướng và hỗ trợ thành lập những cơ quan nghiên cứu độc lập (không chịu tác động của nhà nước) để tiến hành nghiên cứu, đo đạc, giám sát và cung cấp thông tin minh bạch, khách quan nhằm khôi phục tín nhiệm.


Invisible Hand Theory (Adam Smith)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 27, 2016 15:32
No comments have been added yet.


Đặng Huỳnh Mai Anh's Blog

Đặng Huỳnh Mai Anh
Đặng Huỳnh Mai Anh isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đặng Huỳnh Mai Anh's blog with rss.