VIVA VOCE - CON CÁ và CÁI CẦN CÂU (Khi tôi nói về chính sách phúc lợi)
Đặng Huỳnh Mai AnhLondon, 020316
1. Viva Voce: Khi ta không có gì, trừ giọng nói và cái đầu
Trong học kỳ này, tôi có 3 bài thi miệng (Gọi là Viva Voce). Khi nhắc đến bài thi miệng, tôi chỉ nghĩ đến kiểm tra miệng 15 phút đầu giờ hồi cấp 3, ban đầu thấy cũng không ưa lắm. Tôi chỉ bắt đầu hào hứng hơn sau khi nghe thầy còn lại của môn, Peter (cũng là giáo sư hướng dẫn luận văn tốt nghiệp của tôi), giải thích vì sao các thầy quyết định có phần thi Viva Voce.
2. Đừng cho con cá, hãy cho họ cái cần câu. Mối trăn trở: Giúp đỡ người nghèo có khiến họ ỷ lại?
Chúng tôi được chọn một chủ đề và phân tích trong 10 phút (không powerpoint, không bảng viết) và sau đó là 10 phút trao đổi với các thầy.
Tôi chọn chủ đề về phúc lợi xã hội. Nói nôm na là chính sách hỗ trợ vật chất - tài chính cho những người nghèo, nói văn hoa hơn là phân phối lại của cải trong xã hội. Còn nói theo kiểu của tôi, các bạn có thể tưởng tượng chính sách phúc lợi như Robin Hood, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Nhưng ở đây nó hợp pháp, và người phân phối là nhà nước, lấy của người giàu bằng thuế và chia cho người nghèo qua trợ cấp.
Tôi sẽ không nói thêm về ý nghĩa nhân đạo (điều này chắc các bạn đã nghe nhiều). Tôi sẽ nói về lợi ích Kinh Tế của các chính sách phúc lợi, hay việc chia lại tiền của. Theo lý thuyết Keynesian, tiết kiệm (trái với điều thông thường ta nghĩ) là một “hàng hóa xa xỉ” chỉ dành cho người giàu. Khi đưa thêm tiền cho người giàu, vì họ đã đủ đầy rồi họ không có nhu cầu tiêu cho các nhu yếu phẩm, thay vào đó họ sẽ gửi vào tiết kiệm (hoặc mua iPhone 6s, mà iPhone thì đóng góp cho GDP của ngoại quốc nhiều hơn GDP nước nhà). Trong khi đó, nếu đưa thêm tiền cho người nghèo, vốn thiếu ăn thiếu mặc, họ sẽ chi tiêu nhiều hơn vào các sản phẩm cần thiết như thức ăn, tiền học, thuốc men… Nên việc đưa tiền cho người nghèo sẽ thúc đẩy tiêu dùng nhiều hơn (nhất là tiêu dùng nội địa). Mà tiêu thụ nhiều hơn, nghĩa là việc kinh doanh tốt đẹp hơn, tạo được nhiều việc làm hơn. Điều này có ích cho nền Kinh Tế.
Nhưng, người ta cũng có câu, đại khái là, để giúp những người nghèo đừng cho họ con cá, mà hãy cho họ cái cần cầu. Vấn đề lớn nhất của các chính sách phúc lợi là: Nếu chỉ đơn thuần nhét thêm tiền vào túi người nghèo, việc đó có thể sẽ khiến họ lười biếng và không chịu lao động.
Kinh tế học giải thích quyết định "Làm việc hay không? Làm bao nhiêu giờ?" dưới sự tác động của 2 hiệu ứng:
- Hiệu ứng “Thu nhập cao”- Hiệu ứng “Tiền Lương” (Substitution effect): Khi tiền lương trả cho một giờ càng cao thì người ta càng muốn làm việc.
Một con người (lý trí) quyết định làm thêm hay chơi thêm dựa vào việc cân nhắc hai yếu tố: Lợi ích của việc làm thêm một giờ (Cụ thể nhất là lương nhận được cho 1 giờ đó) và Mất mát của việc làm thêm một giờ (Ví dụ: với các bà mẹ thì không có thời gian chơi với con, với các bạn trẻ thì không có thời gian đi chơi với bồ…). Khi mà quyền lợi của việc làm thêm một giờ còn lớn hơn những “hy sinh” bắt buộc thì họ sẽ quyết định làm thêm.
Các chính sách phúc lợi truyền thống, đơn giản là đưa thêm tiền cho người nghèo, sẽ chỉ tạo ra hiệu ứng “thu nhập” cao hơn. Vì vậy, nhiều người sẽ ỷ lại, không chịu làm việc. Từ đó, các chính sách “in-work benefit” được đề xuất, vừa giúp đỡ người nghèo vừa khuyến khích họ lao động. Mà ví dụ thành công nhất là chính sách miễn thuế (Earned Income Tax Credit(Dưới đây, tôi sẽ cố gắng giải thích dễ hiểu nhất có thể. Phần này để đảm bảo sự đầy đủ, không ảnh hưởng gì đến nội dung chung)
Khác với các chính sách phúc lợi truyền thống, các hộ (nghèo) chỉ nhận được quyền lợi (là khoản thuế được hoàn lại) khi họ chịu làm việc. Cụ thể, chia làm 3 giai đoạn hưởng lợi:
Giai đoạn 1 (Phase-in): Trong khoảng 11,000 đô thu nhập đầu tiên, cứ kiếm thêm được 1 đô (sau thuế), gia đình sẽ hưởng 40 cent phúc lợi (giảm thuế). Như vậy, lương sau thuế thành ra là 1.40 đô.
Giai đoạn 2 (Flat): Khi đã đạt mức thuế giảm tối đa là khoảng 4,000 đô, họ không được hưởng thêm phúc lợi khi thu nhập tăng (giữ nguyên mức 4,000).
Giai đoạn 3 (Phase-out): Khi mà thu nhập gia đình đã vượt ngưỡng nghèo, thì cứ 1 đô kiếm thêm, quyền lợi từ giảm thuế sẽ giảm 21%.
Như vậy, trong giai đoạn 1, lương theo giờ tăng lên (thêm 40 cent cho 1 đô kiếm được) khiến người ta nhận được nhiều lợi hơn từ một giờ làm việc và sẽ muốn làm việc hơn. Chính sách này đặc biệt hỗ trợ các bà mẹ đơn thân (“Chi phí” của việc đi làm sẽ cao hơn, vì họ phải “hy sinh” thời gian chăm sóc con), nên EITC vừa hỗ trợ thu nhập, vừa tạo điều kiện để họ đi làm.
Trong giai đoạn 2 và 3, thì hiệu ứng “tiền lương” giảm bớt và hiệu ứng “thu nhập” sẽ thống trị. Nên rất có thể, đến một mức "đủ xài" nào đó, người ta sẽ giảm giờ làm việc xuống. Nhưng các nghiên cứu thực tế về điều này không rõ ràng. Thực tế, thì mọi người đâu được tự ý muốn làm bao nhiêu giờ thì làm (mà còn phụ thuộc vào nhà tuyển dụng; mọi người cũng không nắm hết sự chuyển tiếp và khác biệt quyền lợi ở các giai đoạn, nhất là lợi ích và chi phí tính theo giờ (trong khi lương lại trả theo tháng).

3. Hãy giải thích một lý thuyết và không sử dụng thuật ngữ nào
Hôm nay, tôi đi thi Viva Voce.
Phần thuyết trình diễn ra trôi chảy. Kịch tính nhất là phần hỏi đáp.
Peter hỏi tôi những câu khá “hàn lâm”. Thầy muốn tôi chỉ ra được bản chất Kinh Tế và dùng đúng những thuật ngữ kinh tế. Ví dụ: Lợi ích và chi phí cận biên (Marginal Cost/Benefit), mà cụ thể tôi phải nói ra được ý tưởng cốt lõi là “Income effect” (Hiệu ứng thu nhập) sẽ làm thay đổi Marginal Cost of working (Tức là một giờ rảnh rỗi của người giàu sẽ đắt hơn của người nghèo và thường họ đòi lương cao hơn cho một giờ làm việc). Còn “Substitution effect” (Hiệu ứng tiền lương) sẽ tác động lên Marginal Benefit of Working. Thầy tiếp tục hỏi tôi về bằng chứng số liệu và nghiên cứu trước đó, may mà tôi vẫn nhớ tên một vài nghiên cứu để đáp lại.
Sau khi Peter hỏi xong, Phil “tấn công” tôi bằng một câu hỏi đơn giản mà phức tạp không ngờ:
Bước ra khỏi phòng thi, tôi vừa đi qua một trải nghiệm mới. Tôi chuẩn bị cho phần thi Viva này trong một tuần, và các thầy chỉ hỏi 20% của những gì được chuẩn bị. Chỉ sự kỹ lưỡng mới làm tôi an tâm, thậm chí tôi đã biết được trong 10 phút tôi nói được tầm 1,100 từ. Tôi đã xem xét chính sách EITC ở một phạm vi rộng hơn, là so sánh giữa Mỹ và EU (Vì sao một số nước Châu Âu vẫn thiên về các chính sách phúc lợi thuần túy và đặc biệt hào phóng, kể cả với người thất nghiệp). Đã nghiên cứu cả mặt lợi mặt hại, với số liệu chứng minh. Đã đề ra giải pháp và chuẩn bị luôn cách thức đo lường hiệu quả khi thực hiện các giải pháp. Nói chung, là chuẩn bị nhiều hơn mức cần thiết, nhưng điều đó không hề uổng phí vì tìm hiểu và chuẩn bị không phải là sự đối phó.
Cuối cùng, Viva Voce vẫn là một phần thi căng thẳng, mà ở đó đòi hỏi sự bình tĩnh và ứng đáp tại chỗ. Khác hơn bất kỳ yếu tố nào về sự xuất sắc hay “sinh ra đã vậy”, tôi nghĩ bản lĩnh chỉ đến từ sự nghiêm túc chuẩn bị và tích lũy kiến thức. Như Peter nói: “Vấn đáp và trao đổi là khi bạn khó che đậy lỗ hổng kiến thức nhất”. Ngoài những kỹ năng chuyên môn, tôi học được bài học lớn nhất về việc: “Chém gió” bằng rất nhiều từ chuyên ngành đao to búa lớn có thể không “cool” bằng diễn tả những vấn đề chuyên môn mà không dùng thuật ngữ chuyên môn nào.
Đó cũng là điều tôi ấp ủ từ rất lâu, trong việc học và viết, rằng có thể nói những chuyện tôi học, mà không khiến người nghe ngủ gục. Có thể viết ra những điều tôi hiểu, mà không khiến người ta ngợp, và người đọc sẽ “chịu” đọc đến dấu chấm cuối cùng.
1. Viva Voce: Khi ta không có gì, trừ giọng nói và cái đầu
Trong học kỳ này, tôi có 3 bài thi miệng (Gọi là Viva Voce). Khi nhắc đến bài thi miệng, tôi chỉ nghĩ đến kiểm tra miệng 15 phút đầu giờ hồi cấp 3, ban đầu thấy cũng không ưa lắm. Tôi chỉ bắt đầu hào hứng hơn sau khi nghe thầy còn lại của môn, Peter (cũng là giáo sư hướng dẫn luận văn tốt nghiệp của tôi), giải thích vì sao các thầy quyết định có phần thi Viva Voce.
“Có những lúc tụi em sẽ không có gì cả, không powerpoint, không giấy bút, không bảng, không biểu đồ, không minh họa. Vậy trong tình huống không có công cụ nào khác hơn là giọng nói và cái đầu, em sẽ làm gì? Càng có ít công cụ nhất, người ta càng khó dấu dốt. Khi đó, chúng tôi biết rõ nhất các em có gì!Tôi vừa sợ, vừa lo nhưng khi nhìn ra được ý nghĩa của Viva Voce, tôi đón nhận nó một thử thách nhiều hơn. Khi không có gì trừ giọng nói và cái đầu, khi không có power point màu sắc bắt mắt, khi không thể vịn vào gì khác, chúng ta phải tập trung vào những giá trị bản chất và chân thật nhất.
Một chuyên gia, một nhà khoa học, hay một nhà kinh tế học, sẽ đem lại nhiều giá trị hơn nếu họ có thể giao tiếp những điều mình biết một cách hiệu quả nhất. Và, trong phần thi Viva Voce này, chúng tôi muốn nhìn thấy cái em có thể trình bày ý tưởng của mình sao cho cả những chuyên gia, lẫn những người không biết gì về Kinh tế cũng có thể hiểu được”.
2. Đừng cho con cá, hãy cho họ cái cần câu. Mối trăn trở: Giúp đỡ người nghèo có khiến họ ỷ lại?
Chúng tôi được chọn một chủ đề và phân tích trong 10 phút (không powerpoint, không bảng viết) và sau đó là 10 phút trao đổi với các thầy.
Tôi chọn chủ đề về phúc lợi xã hội. Nói nôm na là chính sách hỗ trợ vật chất - tài chính cho những người nghèo, nói văn hoa hơn là phân phối lại của cải trong xã hội. Còn nói theo kiểu của tôi, các bạn có thể tưởng tượng chính sách phúc lợi như Robin Hood, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Nhưng ở đây nó hợp pháp, và người phân phối là nhà nước, lấy của người giàu bằng thuế và chia cho người nghèo qua trợ cấp.
Tôi sẽ không nói thêm về ý nghĩa nhân đạo (điều này chắc các bạn đã nghe nhiều). Tôi sẽ nói về lợi ích Kinh Tế của các chính sách phúc lợi, hay việc chia lại tiền của. Theo lý thuyết Keynesian, tiết kiệm (trái với điều thông thường ta nghĩ) là một “hàng hóa xa xỉ” chỉ dành cho người giàu. Khi đưa thêm tiền cho người giàu, vì họ đã đủ đầy rồi họ không có nhu cầu tiêu cho các nhu yếu phẩm, thay vào đó họ sẽ gửi vào tiết kiệm (hoặc mua iPhone 6s, mà iPhone thì đóng góp cho GDP của ngoại quốc nhiều hơn GDP nước nhà). Trong khi đó, nếu đưa thêm tiền cho người nghèo, vốn thiếu ăn thiếu mặc, họ sẽ chi tiêu nhiều hơn vào các sản phẩm cần thiết như thức ăn, tiền học, thuốc men… Nên việc đưa tiền cho người nghèo sẽ thúc đẩy tiêu dùng nhiều hơn (nhất là tiêu dùng nội địa). Mà tiêu thụ nhiều hơn, nghĩa là việc kinh doanh tốt đẹp hơn, tạo được nhiều việc làm hơn. Điều này có ích cho nền Kinh Tế.
Nhưng, người ta cũng có câu, đại khái là, để giúp những người nghèo đừng cho họ con cá, mà hãy cho họ cái cần cầu. Vấn đề lớn nhất của các chính sách phúc lợi là: Nếu chỉ đơn thuần nhét thêm tiền vào túi người nghèo, việc đó có thể sẽ khiến họ lười biếng và không chịu lao động.
Kinh tế học giải thích quyết định "Làm việc hay không? Làm bao nhiêu giờ?" dưới sự tác động của 2 hiệu ứng:
- Hiệu ứng “Thu nhập cao”- Hiệu ứng “Tiền Lương” (Substitution effect): Khi tiền lương trả cho một giờ càng cao thì người ta càng muốn làm việc.
Một con người (lý trí) quyết định làm thêm hay chơi thêm dựa vào việc cân nhắc hai yếu tố: Lợi ích của việc làm thêm một giờ (Cụ thể nhất là lương nhận được cho 1 giờ đó) và Mất mát của việc làm thêm một giờ (Ví dụ: với các bà mẹ thì không có thời gian chơi với con, với các bạn trẻ thì không có thời gian đi chơi với bồ…). Khi mà quyền lợi của việc làm thêm một giờ còn lớn hơn những “hy sinh” bắt buộc thì họ sẽ quyết định làm thêm.
Các chính sách phúc lợi truyền thống, đơn giản là đưa thêm tiền cho người nghèo, sẽ chỉ tạo ra hiệu ứng “thu nhập” cao hơn. Vì vậy, nhiều người sẽ ỷ lại, không chịu làm việc. Từ đó, các chính sách “in-work benefit” được đề xuất, vừa giúp đỡ người nghèo vừa khuyến khích họ lao động. Mà ví dụ thành công nhất là chính sách miễn thuế (Earned Income Tax Credit(Dưới đây, tôi sẽ cố gắng giải thích dễ hiểu nhất có thể. Phần này để đảm bảo sự đầy đủ, không ảnh hưởng gì đến nội dung chung)
Khác với các chính sách phúc lợi truyền thống, các hộ (nghèo) chỉ nhận được quyền lợi (là khoản thuế được hoàn lại) khi họ chịu làm việc. Cụ thể, chia làm 3 giai đoạn hưởng lợi:
Giai đoạn 1 (Phase-in): Trong khoảng 11,000 đô thu nhập đầu tiên, cứ kiếm thêm được 1 đô (sau thuế), gia đình sẽ hưởng 40 cent phúc lợi (giảm thuế). Như vậy, lương sau thuế thành ra là 1.40 đô.
Giai đoạn 2 (Flat): Khi đã đạt mức thuế giảm tối đa là khoảng 4,000 đô, họ không được hưởng thêm phúc lợi khi thu nhập tăng (giữ nguyên mức 4,000).
Giai đoạn 3 (Phase-out): Khi mà thu nhập gia đình đã vượt ngưỡng nghèo, thì cứ 1 đô kiếm thêm, quyền lợi từ giảm thuế sẽ giảm 21%.
Như vậy, trong giai đoạn 1, lương theo giờ tăng lên (thêm 40 cent cho 1 đô kiếm được) khiến người ta nhận được nhiều lợi hơn từ một giờ làm việc và sẽ muốn làm việc hơn. Chính sách này đặc biệt hỗ trợ các bà mẹ đơn thân (“Chi phí” của việc đi làm sẽ cao hơn, vì họ phải “hy sinh” thời gian chăm sóc con), nên EITC vừa hỗ trợ thu nhập, vừa tạo điều kiện để họ đi làm.
Trong giai đoạn 2 và 3, thì hiệu ứng “tiền lương” giảm bớt và hiệu ứng “thu nhập” sẽ thống trị. Nên rất có thể, đến một mức "đủ xài" nào đó, người ta sẽ giảm giờ làm việc xuống. Nhưng các nghiên cứu thực tế về điều này không rõ ràng. Thực tế, thì mọi người đâu được tự ý muốn làm bao nhiêu giờ thì làm (mà còn phụ thuộc vào nhà tuyển dụng; mọi người cũng không nắm hết sự chuyển tiếp và khác biệt quyền lợi ở các giai đoạn, nhất là lợi ích và chi phí tính theo giờ (trong khi lương lại trả theo tháng).

3. Hãy giải thích một lý thuyết và không sử dụng thuật ngữ nào
Hôm nay, tôi đi thi Viva Voce.
Phần thuyết trình diễn ra trôi chảy. Kịch tính nhất là phần hỏi đáp.
Peter hỏi tôi những câu khá “hàn lâm”. Thầy muốn tôi chỉ ra được bản chất Kinh Tế và dùng đúng những thuật ngữ kinh tế. Ví dụ: Lợi ích và chi phí cận biên (Marginal Cost/Benefit), mà cụ thể tôi phải nói ra được ý tưởng cốt lõi là “Income effect” (Hiệu ứng thu nhập) sẽ làm thay đổi Marginal Cost of working (Tức là một giờ rảnh rỗi của người giàu sẽ đắt hơn của người nghèo và thường họ đòi lương cao hơn cho một giờ làm việc). Còn “Substitution effect” (Hiệu ứng tiền lương) sẽ tác động lên Marginal Benefit of Working. Thầy tiếp tục hỏi tôi về bằng chứng số liệu và nghiên cứu trước đó, may mà tôi vẫn nhớ tên một vài nghiên cứu để đáp lại.
Sau khi Peter hỏi xong, Phil “tấn công” tôi bằng một câu hỏi đơn giản mà phức tạp không ngờ:
“Em hãy giải thích việc đưa tiền cho người nghèo thì họ tiêu dùng nhiều hơn, MÀ không sử dụng bất kỳ thuật ngữ kinh tế nào”Mất vài giây suy nghĩ, tôi cũng tìm được cách giải thích:
“Nếu em đưa một bảng (đơn vị tiền tệ của Anh) cho một người không nghèo, họ đã đủ giàu để ăn được 2 lạng thịt một ngày, nên khi có thêm tiền, họ không cần mua thịt nữa (vì 2 lạng đủ chất rồi), họ sẽ để dành hoặc chờ đến khi kiếm được nhiều bảng nữa để mua những thứ đắt tiền khác. Còn nếu một bảng đó, em đưa cho người nghèo, thay vì một ngày họ chỉ đủ tiền ăn 1 lạng thịt, giờ họ sẽ có tiền mua thêm 1 lạng nữa (cho đủ 2 lạng). Như vậy việc đưa thêm tiền cho người nghèo sẽ dẫn đến việc tiêu dùng nhiều hơn. Mà như thế, kéo theo rất nhiều người được lợi: Người bán thịt, người sản xuất thịt,…”Phil hỏi tiếp:
“Cái đó là em quan sát được, em chấp nhận lý thuyết không ý kiến gì thêm, hay em có thể giải thích bằng công cụ Kinh Tế nào không, và hãy giải thích nó một cách dễ hiểu”.Bây giờ tôi mới nhận ra, có kiến thức để nói chuyện phức tạp đã khó. Có kiến thức, để nói những chuyện phức tạp một cách đơn giản còn khó hơn. Chắc có nhiều cách giải thích việc một bảng có ý nghĩa với người nghèo nhiều hơn người giàu, nhưng tôi chọn “Diminishing law” để phân tích. Vấn đề là phải giải thích sao cho dễ hiểu, tôi nhớ lại cách mà thầy tôi đã giải thích hồi còn học VCREME:
4. Phần Kết
“Khi em đang đói bụng, việc ăn một cái bánh sẽ làm em rất thích thú và thấy rất ngon. Nhưng ăn thêm một cái, thì em đã no hơn một chút, và thấy bớt thích đi. Ăn thêm cái nữa, thì bớt thi một chút. Đến khi em đã ăn 5 cái rồi, thì cái thứ 6 không khiến em thích thú nữa. (Diminishing Law)
Trong trường hợp này, cũng vậy, một đồng với người nghèo sẽ có nhiều ý nghĩa thỏa mãn hơn một đồng với người giàu”. (Mà như trong tiếng Việt mình có câu “Một miếng khi đói bằng gói khi no”)
Bước ra khỏi phòng thi, tôi vừa đi qua một trải nghiệm mới. Tôi chuẩn bị cho phần thi Viva này trong một tuần, và các thầy chỉ hỏi 20% của những gì được chuẩn bị. Chỉ sự kỹ lưỡng mới làm tôi an tâm, thậm chí tôi đã biết được trong 10 phút tôi nói được tầm 1,100 từ. Tôi đã xem xét chính sách EITC ở một phạm vi rộng hơn, là so sánh giữa Mỹ và EU (Vì sao một số nước Châu Âu vẫn thiên về các chính sách phúc lợi thuần túy và đặc biệt hào phóng, kể cả với người thất nghiệp). Đã nghiên cứu cả mặt lợi mặt hại, với số liệu chứng minh. Đã đề ra giải pháp và chuẩn bị luôn cách thức đo lường hiệu quả khi thực hiện các giải pháp. Nói chung, là chuẩn bị nhiều hơn mức cần thiết, nhưng điều đó không hề uổng phí vì tìm hiểu và chuẩn bị không phải là sự đối phó.
Cuối cùng, Viva Voce vẫn là một phần thi căng thẳng, mà ở đó đòi hỏi sự bình tĩnh và ứng đáp tại chỗ. Khác hơn bất kỳ yếu tố nào về sự xuất sắc hay “sinh ra đã vậy”, tôi nghĩ bản lĩnh chỉ đến từ sự nghiêm túc chuẩn bị và tích lũy kiến thức. Như Peter nói: “Vấn đáp và trao đổi là khi bạn khó che đậy lỗ hổng kiến thức nhất”. Ngoài những kỹ năng chuyên môn, tôi học được bài học lớn nhất về việc: “Chém gió” bằng rất nhiều từ chuyên ngành đao to búa lớn có thể không “cool” bằng diễn tả những vấn đề chuyên môn mà không dùng thuật ngữ chuyên môn nào.
Đó cũng là điều tôi ấp ủ từ rất lâu, trong việc học và viết, rằng có thể nói những chuyện tôi học, mà không khiến người nghe ngủ gục. Có thể viết ra những điều tôi hiểu, mà không khiến người ta ngợp, và người đọc sẽ “chịu” đọc đến dấu chấm cuối cùng.
Published on March 02, 2016 08:04
No comments have been added yet.
Đặng Huỳnh Mai Anh's Blog
- Đặng Huỳnh Mai Anh's profile
- 55 followers
Đặng Huỳnh Mai Anh isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.

