Việt Nam 1954: Giữa 'Chiếm lĩnh' và 'Giải phóng', ký ức về một cuộc tiếp quản - Uyên T. Nguyễn
Chúng tôi biết được bài viết dưới đây nhờ đọc tr Fb của nhà sử học Alex Thai 27-10-2025. Đoạn giới thiệu cũng là của Alex Thai, chúng tôi chỉ mạn phép thay đổi vài chi tiết nhỏ.
Cuối bản A Th này có ghi nguồn Uyen Nguyen https://www.facebook.com/share/p/17Zm...
Thành thực cám ơn và xin lỗi tác giả Alex Thai vì tôi đã không ghi rõ điều này ngay từ đầu
Về nội dung bài viết dưới đây, chúng tôi có một thắc mắc nhỏ.
Trong bài có nói tới một nhân vật tên là Nguyễn Văn. Tôi hiểu đây có thể là tên giả, nhưng ở đoạn dưới lại nói ông dạy nhạc ở trường Chu Văn An. Nếu thế thì đúng là nhạc sĩ Nguyễn Văn Qùy rồi. Với tôi ông còn là giáo viên dạy lớp nhất ở trường tiểu học Thụy Khuê niên học 1953-1954.
Trong bài có chi tiết Nguyễn Văn cùng các cán bộ nội ứng khác bị đưa đi "cải tạo" ở nông thôn .
Tôi muốn tác gỉ nói rõ hơn vì lúc ấy thầy Qùy rất yếu.
***************
Tác giả Uyen T. Nguyễn
Đại học Quốc gia Singapore
Tiến sĩ Uyên T. Nguyễn là một nhà sử học nghiên cứu về Việt Nam giaiđoạn hiện đại. Cô hiện là Giảng viên tại Khoa Lịch sử, Đại học Quốc giaSingapore (đến tháng 12 năm 2025) và từ tháng 1 năm 2026 sẽ đảm nhiệm vị tríTrợ lý Giáo sư Lịch sử và Ngôn ngữ & Văn minh Đông Á tại Đại học Harvard.Các công trình nghiên cứu của cô tập trung vào các quá trình chuyển đổi lịch sửthông qua những góc nhìn liên ngành và so sánh. Luận văn sau dựa trên một phầnnghiên cứu chuyên khảo của cô về quá trình tiếp quản đô thị ở miền Bắc Việt Namgiai đoạn 1949-1958 với nhan đề Đô thịdấu yêu, Đô thị sa đọa: Cuộc tiếpquản của chính quyền cộng sản và những biến đổi xã hội chủ nghĩa ở các đô thịmiền Bắc Việt Nam (1949-1958) [Beloved City, Depraved City: CommunistTakeovers and Socialist Transformations in North Vietnam's Cities (1949-1958)].
--
Người cộngsản đã tiếp quản chính quyền vào năm 1954 như thế nào
và có gì tương đồng vớigiai đoạn sau 30 tháng 4 năm 1975?
Sự sụp đổ củaSài Gòn trước lực lượng cộng sản tháng 4 năm 1975 thường được xem như một sựkiện độc nhất và mang tính quyết định trong cuộc Chiến tranh Việt Nam – một"cuộc chiếm lĩnh" bất ngờ hay một "sự kiện giải phóng", tùytheo góc nhìn của mỗi người.
Tuy nhiên,trên thực tế, các cuộc tiếp quản đô thị bởi các lực lượng cộng sản là một loạisự kiện đã xảy ra và lặp lại nhiều lần trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20.
Vào năm 1954– hai thập kỷ trước biến cố nổi tiếng ở miền Nam – một cuộc chuyển giao kịchtính tương tự đã diễn ra khi lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) do HồChí Minh lãnh đạo tiếp quản Hà Nội từ Quốc gia Việt Nam (État du Viêt Nam;QGVN) vốn được Pháp hậu thuẫn.
Luận văn nàynhìn lại khoảnh khắc ấy, tập trung vào quá trình tiếp quản miền Bắc Việt Nam vềmặt hành chính thông qua chuyển giao chuyên môn và chính trị hóa công sở, giáodục và văn hóa.
Luận văn tậptrung vào Hà Nội giai đoạn 1954-1960 với mục đích giúp cho các độc giả vốn quenthuộc hơn với các sự kiện ở Sài Gòn năm 1975 có thể đưa ra những so sánh vànhận định dựa trên trải nghiệm và kiến thức cá nhân – qua đó, tác giả muốn đưara gợi ý rằng trải nghiệm của thập niên 1950 đã định hình chiến lược và kỳ vọngcủa chính quyền cộng sản cho các đợt tiếp quản đô thị sau này, đặc biệt là SàiGòn năm 1975.
Như vậy, thayvì nhìn nhận các cuộc tiếp quản như các sự kiện đơn lẻ hoặc như các điểm kếtthúc của các cuộc chiến quân sự (với một bên thắng cuộc và một bên thua cuộc),chúng ta có thể nhìn nhận các sự kiện này như các diễn biến tuần tự trong mộtquá trình lâu dài, nơi mà cả chính quyền lẫn xã hội Việt Nam học cách giảiquyết xung đột và chung sống sau chiến tranh – một quá trình vẫn còn tiếp diễntới ngày nay.
Khúc khải hoàn của cuộc tiếp quản
Chính quyềnBắc Việt gọi cuộc tiếp quản Sài Gòn năm 1975 là một "khúc ca khảihoàn" – khi quân cộng sản giành chiến thắng và đưa miền Nam "trởvề" với Tổ quốc. Nhưng "khúc ca khải hoàn" này đã được xướng lênhai lần trước đó. Tháng 8 năm 1945, sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng Minh,là lần đầu tiên chính quyền Hồ Chí Minh lên nắm quyền chính thức trên lãnh thổViệt Nam – một cuộc chuyển giao chính quyền mà Hồ Chí Minh đã miêu tả trongTuyên ngôn độc lập: "Dân ta đã lấy lại nước Việt Nam."
Sau Tuyênngôn độc lập đó, chính quyền VNDCCH đã kiểm soát Hà Nội trong một thời gianngắn trước khi quân Pháp quay trở lại vào năm 1946, và chính quyền QGVN đượcthành lập vào năm 1949. Khi cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúcnăm 1954, chính quyền Hồ Chí Minh gọi cuộc tiếp quản Hà Nội là một cuộc khảihoàn.
Tuy nhiên,trong lần "trở về" này, chính quyền VNDCCH không hẳn là chính quyềnViệt Minh đã được lập nên vào năm 1945 – bởi phần lớn các thành viên khôngthuộc phe cộng sản đã bị loại bỏ từ lâu.
Thêm vào đó,số phận các thành phố lớn ở phía Bắc như Hà Nội và Hải Phòng đã được định đoạttại Hội nghị Genève - có nghĩa là cuộc chuyển giao chính quyền tại các thànhphố lớn không phải là kết quả của một cuộc nổi dậy đô thị tự phát như lực lượngcách mạng đã từng kỳ vọng (giống như những gì đã xảy ra vào tháng tám năm 1945)– mà là một quá trình chuyển tiếp được dàn dựng và tiến hành một cách cẩn thận.
Nói cáchkhác, bản thân xã hội đô thị tiếp nhận sự "trở về" của chính quyềnVNDCCH cũng không còn giống như chín năm trước đó.
Khi nhìn lạiđại cảnh chia cắt Nam–Bắc trong 20 năm từ khi tiếp quản Hải Phòng (1955) đếnkhi Sài Gòn thất thủ (1975), người ta thường tập trung vào hai con đường pháttriển khác nhau mà miền Bắc và miền Nam đã lựa chọn.
Nhưng chínhcác mô hình được thiết lập từ thập niên 1950 – cả ở miền Bắc cộng sản và miềnNam chống cộng – đã định hình bối cảnh cho hồi kết của cuộc chiến.
Ở cả hai thờikỳ, thập niên 50 và thập niên 70, các lãnh đạo cách mạng phải quản lý nhữngthành phố mà dân cư còn hoài nghi hoặc dửng dưng với chủ nghĩa cộng sản và nơinền nếp xã hội, hành chính, đời sống đô thị đã phát triển lâu đời với nguồn gốcở các chế độ trước.
Nhà nước như một 'dinh thự'
Để hình dungquá trình chuyển giao quyền lực ở Hà Nội 1954, ta có thể mượn phép ẩn dụ màBenedict Anderson đã sử dụng trong cuốn Cộngđồng tưởng tượng (Imagined Communities): nếu nhà nước và bộ máy của nó làmột khu dinh thự, thì một chính quyền mới là chủ nhân mới, kế thừa dinh thự ấytừ chủ nhân cũ.
Trong lịch sử hiện đại Việt Nam, "dinhthự" ấy đã nhiều lần đổi chủ – triều Nguyễn, chính quyền thuộc địa Pháp,quân Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim, QGVN – và mỗi người chủ lại vận hành vàthay đổi hạ tầng của dinh thự theo cách riêng.
Khi chínhquyền VNDCCH tiếp quản Hà Nội năm 1954, họ kế thừa từ QGVN một bộ máy hànhchính khá hoàn chỉnh với đội ngũ công chức Việt chuyên nghiệp, và giống như cácchủ nhân trước đó, họ không phá bỏ dinh thự mà tìm cách làm chủ nó.
Dù chínhquyền cách mạng thường nói về sự lột xác hoàn toàn, trên thực tế, quá trìnhchuyển giao thường giống như kỹ thuật "ghép cành" trong làm vườn:chính quyền mới không loại bỏ hoàn toàn bộ máy cũ mà ngược lại,"ghép" mình lên cấu trúc của bộ máy cũ – một tiến trình phức tạp vàđôi lúc đầy khó khăn.
Sự chuẩn bị kỹ lưỡng và bối cảnh đặc biệt
Như đã nói ởtrên, việc tiếp quản Hà Nội năm 1954 không hề bất ngờ. Sự kiện này xảy ra nhiềutháng sau Hiệp định Genève, qua đó, bộ máy Pháp-QGVN rút lui theo lịch trìnhđược định sẵn, giúp cho phía VNDCCH có thời gian để chuẩn bị kỹ lưỡng. Khônggiống các lần chuyển giao chính quyền trước Hiệp định (thường gấp gáp và thiếuchuẩn bị), cuộc chuyển giao năm 1954 ở Hà Nội cũng được xây dựng trên kinhnghiệm từ nhiều cuộc chuyển giao trước đó ở các thành phố nhỏ hơn ở miền Bắc,và thường được nhiều người nhớ đến bởi sự kỷ luật và quy củ.
Từ tháng chínđến tháng mười năm 1954, chính quyền VNDCCH đã thống nhất ba nguyên tắc ưu tiêntrong kế hoạch tiếp quản hành chính đô thị: (1) ưu tiên lập lại trật tự, ổnđịnh đời sống; (2) giữ lại tối đa đội ngũ kỹ thuật, công chức của Pháp-QGVN; và(3) "ghép cành" có chiến lược lên bộ máy cũ.
Một tài liệuBộ Nội vụ năm 1954 nêu rõ:
"Đối với các cơ quan chuyên môn ta chưa tổ chức bộ máy như Kinh tế,Canh nông,… hoặc đã có nhưng còn rất yếu như Y tế, Bưu điện, lúc đầu ta chỉ cửcán bộ chỉ huy vào lãnh đạo điều khiển bộ máy cũ của giặc. Trừ những tên có tộinặng theo chủ trương phải trừng trị, còn ta vẫn giữ nguyên hiện trạng bộ máycũ: những người phụ trách cấp bộ nào vào cấp bộ ấy. Dần dần, ta sẽ đưa ngườicủa ta vào."
(Kế hoạch thu hồi công sở của địch, Bộ Nội vụ 3627, Trung tâm Lưutrữ Quốc gia III)
Như các câuchuyện dưới đây cho thấy, cuộc chuyển giao thực tế phức tạp hơn nhiều. Địnhhướng của trung ương va chạm với thực tế, khả năng kỹ thuật, tâm tư cá nhân,tham vọng cách mạng và tác động bất thường của chính trị.
Ba cuộc đời trong giai đoạn chuyển tiếp
Những ký ứcdưới đây – của một cán bộ trẻ, một công chức lưu dung, và một người cách mạngnằm vùng – hé lộ ba góc nhìn khác nhau về một thời kỳ chuyển giao đầy mâu thuẫnvà biến động (tên nhân vật đã được thay đổi).
1. Phan Việt:Cán bộ trẻ và quá trình học nghề
Phan Việtsinh năm 1935 và lớn lên tại Thái Nguyên. Ông được đào tạo trong cả hệ thốnggiáo dục thuộc địa lẫn hệ thống VNDCCH. Đầu năm 1954, đang là một sinh viên trẻđang học tập ở Trường Giao thông Công chính VNDCCH, ông được điều động làm đườngdây liên lạc cho chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi tiếp tục được điều về nhóm tiếpquản Bưu điện Hà Nội.
Là một trongsố ít cán bộ được đào tạo ngành bưu chính, Phan Việt nhớ lại, trong số cán bộVNDCCH tiếp quản Bưu điện có rất nhiều người "thất học", "thậmchí còn chưa biết đọc biết viết". Quan hệ ban đầu giữa cán bộ VNDCCH vớinhân viên cũ của Pháp-QGVN bề ngoài "bình thường" và "lễphép", nhưng ông cũng mô tả sự chia rẽ về mặt tâm lý:
"[…] những người lưu dung ấy, người ta đối xử luôn luôn rất khiêm tốn,vì người ta cũng mặc cảm vì người ta là người thất bại, bây giờ là lưu dung.Nên là không có điều gì người ta làm quá lên cả.
Còn về phía kẻ chiến thắng thì trong đầu luôn luôn có chút gì đấy có vẻkhinh thường, coi thường người ta. Coi trọng người ta chẳng qua vì người ta cónghề, rồi khi mà mình đã ăn cắp được nghề của họ, mình vững vàng rồi, thì mìnhkhông sử dụng người ta nữa."
Đó là giaiđoạn hợp tác "bất đắc dĩ": chính quyền mới phải học hỏi bí quyết kỹthuật từ những người mà họ không mấy tin cậy về mặt chính trị. Phan Việt thừanhận đã học nghề từ các nhân viên lưu dung mà theo cảm nhận cá nhân của ông,đều là những người "được đào tạo rất nghiêm túc" và có tư cách và đạođức "tuyệt vời". Quá trình chuyển giao kỹ thuật diễn ra theo mô hìnhlan tỏa: nhân viên cũ dạy cho cán bộ mới, những người này lại dạy tiếp chongười khác. Chỉ khi một số lượng cán bộ tin cậy đã được rèn luyện đầy đủ, cácnhân viên cũ mới bắt đầu bị loại bỏ.
2. NguyễnHiếu: Công chức lưu dung
Câu chuyệncủa Nguyễn Hiếu đến từ phía bên kia của quá trình chuyển giao kỹ thuật sau tiếpquản. Sinh năm 1928 trong một gia đình khá giả ở Hà Nội, Nguyễn Hiếu tốt nghiệptrung học và sớm tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau khi bị quân Pháp bắttrong vùng tự do và giam tại Hỏa Lò một thời gian, ông ở lại Hà Nội, theo họctrường Y rồi trở thành bác sĩ ở Bệnh viện Yersin (sau là Bệnh viện Phủ Doãn).
Khi quân cộngsản tiếp quản Hà Nội, Nguyễn Hiếu thuộc nhóm công chức lưu dung và ông biếtchính quyền mới không tin tưởng mình: "Trước thì [tôi] là người theo cáchmạng, về lại Hà Nội rồi thì thành ngụy." Ban đầu, cuộc sống của nhữngngười ở lại vẫn diễn ra bình thường. Nhưng chỉ vài tháng sau, như tất cả cáccựu công nhân viên khác của chính quyền QGVN, Nguyễn Hiếu bị đưa đi "họccách mạng" một năm – chương trình gồm học lý thuyết chính trị và đi thựctế tham gia cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở nông thôn. Đi về Phủ Lý, ông bị sốctrước sự tàn bạo của CCRĐ và từ niềm tin cách mạng lưu giữ từ những năm 40, ôngdần nhận ra sự khắc nghiệt của chế độ mới:
"Sợ lắm, cải cách ruộng đất, sợ. Lúc bấy giờ thì mình vẫn chưatỉnh, chưa tỉnh ngộ, nhưng về sau đi sâu cải cách ruộng đất thì sợ, thì mớithấy tại sao lại như thế, giết người vô lý. […] Chết nhiều lắm. Sau cải cáchruộng đất thì mới có nhiều cái suy nghĩ, lúc bấy giờ người ta mới hiểu ra […]cái chính quyền của mình là cái chính quyền vô sản, cái nền chuyên chính vô sảnkinh khủng lắm, nó không có mức độ nào cả, anh có thể sống, anh có thể chết lúcnào không biết."
Khi nhà nướcVNDCCH không còn cần chuyên môn của hệ thống công chức và kỹ thuật viên củachính quyền QGVN nữa, những người như Nguyễn Hiếu bị giáng chức hoặc loại bỏkhỏi bộ máy; đa số "tự nguyện" chuyển xuống mức lương thấp hơn, mộtsố ít vào các trường dạy nghề, còn lại được cho "nghỉ hưu non". NguyễnHiếu trở thành kỹ thuật viên phòng X-quang – vị trí thấp hơn nhiều trình độ củaông.
3. NguyễnVăn: Người cách mạng nằm vùng
Không phảitất cả những người công chức VNDCCH (được ghép vào bộ máy cũ cùng các công chứclưu dung từ chính quyền cũ) đều là những người mới tới Hà Nội lần đầu. NguyễnVăn sinh năm 1925, lớn lên ở khu phố cổ Hà Nội trong một gia đình Công giáo.Ông tốt nghiệp tú tài hệ giáo dục thuộc địa, học nhạc, và vào đầu những năm 40thì tham gia Việt Minh với công việc phát truyền đơn và tổ chức các hoạt độngbí mật.
Sau một thờigian hoạt động trong vùng tự do sau năm 1946 và bị Pháp bắt, Nguyễn Văn trở vềHà Nội làm cán bộ nội ứng. Những tuần cuối trước tháng 10 năm 1954, ông đượcđiều động để vận động nghệ sĩ, công chức, công nhân ở lại làm việc với chínhquyền mới, chuẩn bị cho lễ tiếp quản công khai.
Sau tiếpquản, dù thuộc phía "người thắng cuộc", Nguyễn Văn cũng nhận thấynhiều bạn bè trong khu phố của mình biến mất trong năm đầu tiên của chính quyềnmới – di cư vào Nam hoặc bị thất thế. Sau khi chính thức tham gia vào chínhquyền mới với vai trò giáo viên âm nhạc tại trường Chu Văn An và sau đó làtrường Sư phạm Hà Nội, ông đối mặt với thực tế mới: "chính trị hóa giáodục" được đặt lên hàng đầu – học sinh "chỉ học về Đảng", cácnhạc sĩ "phải sáng tác ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ"; ai không phụctùng sẽ "không nhấc đầu lên nổi."
Ngay cả nhữngngười cộng sản tâm huyết cũng vỡ mộng khi chứng kiến những giới hạn của lýtưởng chính trị. Nguyễn Văn cùng các cán bộ nội ứng khác bị đưa đi "cảitạo" ở nông thôn.
Tận mắt chứngkiến CCRĐ, Nguyễn Văn nhận ra "sự tàn nhẫn và bất công của Đảng Cộngsản" và bị tổn thương sâu sắc. Trước chuyến đi học cải tạo, Nguyễn Văn đãđược mời học cảm tình Đảng, nhưng sau chuyến đi, ông quyết định không vào Đảng,dù vẫn tiếp tục làm làm việc tại Đại học Sư phạm Hà Nội và học cách thích nghiđể tồn tại. Từng là người chiến thắng, ông trở thành kẻ quan sát im lặng trongmột xã hội ngày càng khép kín.
Những mâuthuẫn sau ngày tiếp quản
Nếu quan hệgiữa "người thắng" – các cán bộ cách mạng và "kẻ thua" –các nhân viên chính quyền cũ được định hình bởi sự nghi kỵ, thì trong nội bộ"người thắng cuộc" cũng đầy cạnh tranh, so bì. Cán bộ từ "vùngtự do" – từng sống trong vùng rừng núi thời chiến – coi nhẹ mạng lướithành thị như Nguyễn Văn, gọi họ là "bọn cách mạng Hồ Gươm" – mộtcách gán nhãn khiến không ít người cảm thấy bị hạ thấp, dù họ cũng từng liềumạng vì lý tưởng. Nguyễn Văn bức xúc nhưng không dám công khai phản đối:
"Chỉ họ mới làm cách mạng? Họ có biết rằng nếu [quân Nhật] bắt đượctôi mang tư liệu, truyền đơn, báo chí, bản tin, bài hát bán lấy tiền gây quỹcho Thanh niên Thành Hoàng Diệu […] nó để tay, rồi chặt cả bàn tay luôn. Cónguy hiểm, có đáng sợ không? Nhưng có những kẻ tự cho mình là anh hùng hơn, nóikhinh miệt: 'bọn cách mạng Hồ Gươm ấy mà'."
Sự bất phụccàng sâu sắc hơn khi lý lịch cách mạng trở thành tiêu chuẩn cho quyền lợi vàđặc quyền. Phan Việt, sau khi trở thành cán bộ kỹ thuật tại Bưu điện Hà Nội,cũng bị ảnh hưởng bởi phong trào chống tư tưởng "tạch tạch sè"("tiểu tư sản") vì ông biết đọc viết, biết tiếng Pháp, và thíchđọc sách vào thời gian rảnh. Đây không phải là lần duy nhất Phan Việt cảmthấy bức xúc với tình hình chung, nhưng ông cũng đã ngầm hiểu rằng nói ra ýkiến của mình chỉ mang lại rắc rối và nguy hiểm cho bản thân:
"[…] mình cũng phải thích nghi theo môi trường để tồn tại [...] mặcdầu mình có ý nghĩ gì hơi khác thì mình cũng để im thôi, chứ mình không dámchống đối, cái đấy là cái bản năng thôi."
Sự ganh đuaâm thầm giữa người trong cuộc cho thấy rằng cách mạng không chỉ là cuộc đổithay quyền lực, mà còn là cuộc thử thách đạo đức và niềm tin của chính nhữngngười đã giành được chiến thắng.
Kết luận:
Di sản của quá trình chuyển đổi quyền lực
Khi đoànngười chiến thắng tiến qua những con phố Hà Nội vào mùa thu năm 1954, quyền uymới không tự nhiên xuất hiện từ niềm vui của đoàn quân chiến thắng hay tiếng hòreo của đám đông. Dù chiến thắng vang dội ở Điện Biên Phủ, ảnh hưởng về mặthành chính – xã hội của liên minh Pháp-QGVN chưa mất ngay; quyền lực phải đượctái thiết từng chút dựa trên bộ máy và con người của chế độ cũ.
Việc chínhquyền cộng sản tiếp quản "dinh thự" nhà nước từ bộ máy QGVN và Phápcũng chứng tỏ rằng một cuộc tiếp quản không đánh dấu một sự đứt gãy ý thức hệhoàn toàn. Thay vào đó, tiếp quản và thiết lập bộ máy nhà nước là quá trìnhphức tạp, diễn ra không đồng đều, với nhiều tranh chấp ngầm – cái cũ và mới,trật tự và biến chuyển, nghi ngờ và hợp tác cần thiết được cân bằng một cáchthận trọng.
Hai mươi nămsau, khi đoàn xe tăng tiến vào Sài Gòn, dù không thể chuẩn bị kỹ lưỡng như cuộctiếp quản Hà Nội năm 1954, nhiều người trong bộ máy cách mạng đã thuộc lòngkịch bản Hà Nội 1954 – từ cách tiếp quản cơ quan, trấn an dân chúng đến việc"ghép cành" vào bộ máy cũ, rồi thanh lọc và siết chặt tư tưởng.
Trải nghiệmHà Nội 1954-1960 nhắc chúng ta rằng thay đổi chế độ là quá trình lâu dài, vànhững người sống qua giai đoạn chuyển biến đó có những thái độ và cách hành xửkhác nhau: mặc cả, oán giận, hợp tác, và đôi khi chỉ là im lặng chịu đựng đểtồn tại.
Khi cách mạng mới kế thừa "hạ tầng"của quá khứ, thách thức lớn nhất không nằm ở việc tuyên truyền khẩu hiệu"giải phóng" hay "chiếm lĩnh", mà là ở việc quản trị thựctiễn. Nhìn lại, di sản của cuộc tiếp quản miền Bắc năm 1954 không chỉ là bàihọc về quyền lực, mà còn là lời nhắc rằng giữa "chiếm lĩnh" và"giải phóng", điều khó nhất không phải là chiến thắng, mà là học cáchcùng tồn tại trong hòa bình.
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers

