Vương Trí Nhàn's Blog
October 8, 2025
Hai bài báo về Nguyễn Huy Thiệp
1/ Nguyễn Huy Thiệp - 'anh hùng còn chi'
Bài của Phương Linh
Nguồn: https://vnexpress.net/nguyen-huy-thie...
---
Hà Nội, ngày nằm trên giường bệnh, bạn đến thăm, Nguyễn Huy Thiệp đọc thơ thay lời chào: "Khi mê bùn chỉ là bùn/ Ngộ ra mới biết trong bùn có sen".
Bạn bè trong giới văn chương, hội họa của Nguyễn Huy Thiệp hội tụ dịp ra mắt di cảo Anh hùng còn chi, tối 22/11. Tên sách vốn được lấy từ đoạn thơ trong truyện Chảy đi sông ơi của nhà văn: "Rồi sông đãi hết/ Anh hùng còn chi".
Hơn hai năm từ khi Nguyễn Huy Thiệp qua đời, với gia đình và bạn văn, cái "còn" là rất nhiều kỷ niệm, được họ ôn lại trong sự kiện. Họa sĩ Lê Thiết Cương - bạn vong niên của nhà văn, người vẽ bìa sách Anh hùng còn chi - nhớ Giáng sinh năm 2018, Nguyễn Huy Thiệp tới nhà và mang theo một tờ giấy gấp làm bốn, là những trang viết tay tiểu luận Nói chuyện một mình. Ông nhờ thư ký của anh đánh máy, sau đó nói vui nhờ họa sĩ liên hệ đăng báo để ông có tiền mừng tuổi cháu gái (Nhím). Đó cũng là tiểu luận cuối cùng của nhà văn, trước khi ông bệnh nặng.
Lê Thiết Cương cũng cho biết vở kịch Nhà Ôsin của Nguyễn Huy Thiệp được lấy chi tiết từ nhà anh, bởi khi ấy gia đình họa sĩ có đến tám người giúp việc. Hóm hỉnh, cởi mở nhưng đôi khi Lê Thiết Cương có chút nghẹn lời, gương mặt phảng phất nét buồn. Họa sĩ cũng như những người gắn bó lâu năm với nhà văn chưa thể nguôi ngoai cảm xúc khi nhớ về ông.
Nhà thơ Bảo Sinh gần gũi với Nguyễn Huy Thiệp gần 40 năm, từng cùng ông đi khắp nước, thường trò chuyện với ông vài tiếng mỗi ngày. Nhớ lại thời gian Nguyễn Huy Thiệp nằm viện, khi con trai ông - Nguyễn Phan Bách - hỏi có nhận ra ai đến thăm, nhà văn lập tức đọc lên những câu thơ của người bạn thân thiết. Ở những buổi sau, mỗi khi Bảo Sinh đến, ông tiếp tục đọc những dòng viết của bạn: "Khi mê bùn chỉ là bùn/ Ngộ ra mới biết trong bùn có sen/ Khi mê tiền chỉ là tiền/ Ngộ ra mới biết trong tiền có tâm...". Đến lần thăm cuối, Nguyễn Huy Thiệp mới không đọc thơ nữa.
Họa sĩ Đào Hải Phong không thể quên những truyện ngắn của nhà văn, thậm chí bị "ám ảnh". Từ nhỏ, anh luôn chờ mỗi tuần để được bố mua cho tờ báo Văn nghệ có in truyện Nguyễn Huy Thiệp. Khi trưởng thành, họa sĩ may mắn có dịp gặp gỡ, từng vẽ minh họa cho một số tác phẩm của ông, sau này được ông coi như một người bạn.
Ngoài kỷ niệm, Nguyễn Huy Thiệp để lại cho bạn văn, bạn đọc sự nghiệp văn chương của ông, bao gồm các tác phẩm trong di cảo do Tiến sĩ Mai Anh Tuấn tổng hợp, biên soạn. Sách gồm ba phần: Phần một là những bài thơ ông viết năm cuối đời hay chưa từng công bố trong sự nghiệp.
Nổi tiếng với truyện ngắn nhưng ông sớm làm thơ và hoàn thành tập Những vần thơ chua xót năm 27 tuổi, mang suy tư của một giáo viên tỉnh lẻ, bày tỏ quan điểm thẳng thắn về hiện thực lúc bấy giờ. Không xuất bản nhưng những câu thơ sau này vẫn hiện diện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, giúp người đọc hiểu thêm về phong cách sáng tác của ông.
Một năm trước khi đi xa, Nguyễn Huy Thiệp duy trì viết thơ, gửi gắm tình thương vợ con, góc nhìn con người khi đối diện bệnh tật. Dù sáng tác trong cơn đau ốm, ông vẫn tràn đầy tình yêu với con chữ: "Viết không ra viết/ Nhưng vẫn vẽ viết/ Cho yêu một đời/ Nói chỉ nói vậy thôi/ Lòng buồn không tả nổi".
Phần một còn có truyện ngắn, tiểu luận, tạp văn, kịch bản phim truyện. Trong đó, sách giới thiệu hai kịch bản phim do ông sáng tác là Tướng về hưu, Không còn vua.
Phần hai là những ký họa của ông trên gốm, gồm ký họa chân dung văn nhân, bạn hữu thân sơ, các con, cháu và những cá tính văn chương lớn như Victor Hugo, Balzac, Hemingway, Puskin, Bùi Giáng, Tô Hoài. Ở mặt sau, ông ghi đề tặng hoặc viết những câu châm ngôn, trích đoạn tác phẩm muốn gửi gắm. Cuối cùng là hình ảnh qua các dấu mốc cuộc đời của nhà văn, ảnh chụp bản thảo và bài đăng trên báo được bạn bè, gia đình lưu giữ.
Cầm trên tay cuốn di cảo, lắng nghe những câu chuyện về nhà văn lúc sinh thời, họa sĩ Nguyễn Phan Bách - con trai cả của Nguyễn Huy Thiệp không ngăn được niềm xúc động. Ngồi ở hàng ghế khán giả, Phan Bách chăm chú theo dõi, thi thoảng anh nhắc khách mời tên truyện ngắn, bài thơ của bố.
Họa sĩ cho biết khi bố còn sống, anh cùng em trai Phan Khoa vẫn ngồi trò chuyện với ông về văn học, nhưng không thể hiểu tường tận những lời bố dặn dò đến khi ông qua đời.
Theo nhà phê bình Ngô Thảo, những tác phẩm được chọn giới thiệu trong di cảo thể hiện tình yêu, sự kính trọng của gia đình, bạn bè dành cho Nguyễn Huy Thiệp. Ông Ngô Thảo khẳng định với giá trị để lại, Nguyễn Huy Thiệp mãi là một trong những nhà văn tiêu biểu của thế hệ mới.
Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950 tại Thái Nguyên, quê gốc ở Hà Nội, tốt nghiệp khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội. Ông xuất hiện trên văn đàn Việt Nam từ năm 1986, với một số truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ đề tài nông thôn. Bên cạnh đó, nhà văn còn viết 10 vở kịch, bốn tiểu thuyết cùng nhiều tiểu luận, phê bình văn học gây chú ý, được xem là "hiện tượng hiếm" của văn đàn trong nước.
Ông từng nhận huân chương Văn học Nghệ thuật Pháp (2007), giải thưởng Premio Nonino (Italy, 2008). Một số tác phẩm nổi bật của Nguyễn Huy Thiệp gồm truyện ngắn Tướng về hưu, chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên năm 1988, Những ngọn gió Hua Tát (tập truyện ngắn và kịch, 1989), Tiểu Long Nữ (tiểu thuyết, 1996), Tuổi 20 yêu dấu (tiểu thuyết, xuất bản ở Pháp năm 2002). Ông qua đời ngày 20/3/2021 tại nhà riêng, thọ 71 tuổi.
---------------
2/ 'Những vần thơ chua xót' trong di cảo Nguyễn Huy Thiệp
Bài của Thanh Nghị
Nguồn: https://vnexpress.net/nhung-van-tho-c...
---
Tập "Những vần thơ chua xót"do Nguyễn Huy Thiệp viết ở tuổi đôi mươi, được gia đình tìm thấy khi ông mất,sẽ in trong di cảo của ông.
Di cảoNguyễn Huy Thiệp được gia đìnhphối hợp tiến sĩ Mai Anh Tuấn (Đại học Văn hóa Hà Nội) thực hiện, mang đến độcgiả góc khác của tác giả Tướngvề hưu.
Theo đại diện gia đình, bộ di cảo sẽ thể hiện NguyễnHuy Thiệp, ngoài là một nhà văn, còn là nhà thơ nhiều suy tư thời cuộc, một họasĩ vẽ chân dung và một biên kịch.
Trong đó, lần đầu tiên độc giả sẽ có dịp thưởng thức tập thơ nhỏ củaông viết từ thuở đôi mươi - các tác phẩm này chỉ được gia đình tìm thấy sau khi nhà văn qua đời.
Cuốn sổ thơ chép tay năm 1977, được Nguyễn Huy Thiệp đặt tên Những vần thơchua xót, ghi lời đề tặng cho con trai đầu mới một tuổi đang sống cùng mẹ- người cũng đi dạy học ở một vùng núi khác. Tập thơ có lời đề từ: "Cònnhững gì chua xót/ Chỉ là trong thơ thôi". Ông tự trình bày quyển tập chéptay như thể một tập thơ được xuất bản, có cả mục lục, trên khổ giấy tương đươngkhổ sách thơ phổ biến thời kỳ đó.
"Bố tôi đã có ý thức sẽ xuất bản tập thơ của mìnhngay từ khi mới bắt đầu viết", họa sĩ Nguyễn Phan Bách, con trai trưởngcủa nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói.
Tiến sĩ Mai Anh Tuấn - người biên soạn cuốn di cảo chobiết tập thơ gồm 51 bài bộc bạch cảm xúc và suy tư, những suy tư về các giá trịsống của một trí thức sống nơi tỉnh lẻ, đang băn khoăn tìm đường đến với mộngvăn chương. Những vần điệu ấy không có câu chữ trau chuốt, bút pháp tân kỳnhưng cho thấy một Nguyễn Huy Thiệp "khởi nghiệp" với thơ chứ khôngphải với văn xuôi.
Tập thơ chưa bao giờ được in. Đúng 10 năm sau tập thơ,tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu nổi lên trên văn đàn như một hiện tượng lạlùng của nền văn học Đổi mới, nhưng với tư cách là một nhà văn, để rồi nhanhchóng xác lập vị trí "vua truyện ngắn" mà tới nay chưa có người soánngôi.
Không xuất bảntập thơ nào khi ông sống, nhưng thực tế Nguyễn Huy Thiệp đã hiện diện như mộtthi sĩ thực sự trong chính các truyện ngắn đầy chất thơ của ông, hay những vầnthơ được ông đưa vào nhiều truyện. Nay, với tập di cảo sắp ra mắt, có lẽ bạnđọc sẽ có dịp thấy được chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là có gốctích.
Cũng không ngạc nhiên khi nhớ ra rằng những người bạn trong văn chươngvà đời thường của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều người là nhà thơ, từ Hoàng Nhuận Cầm, Đồng Đức Bốn, đến nhà thơ dângian Bảo Sinh.
Di cảo Nguyễn Huy Thiệp cũng tập hợp vài truyệnngắn của ông từng đăng báo, nhưng chưa xuất hiện trong tuyển truyện nào trướcđây. Thêm một số bài tiểu luận, tạp bút, những "vần thơ" cuối đời,hai kịch bản phim truyện Tướngvề hưu và Khôngcó vua, kịch bản phim tài liệu truyền hình về nhà thơ Đồng Đức Bốn.
Cuốn sách còn giới thiệu Nguyễn Huy Thiệp như một họasĩ vẽ chân dung trên đĩa gốm. Lâu nay, bạn bè thỉnh thoảng lại khoe những bứchọa chân dung của mình do nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vẽ tặng. Nay qua sách, ngườiđọc sẽ có cơ hội được biết nhiều hơn về một thú vui, có lẽ là một chuyên mônkhác của nhà văn, đó là vẽ chân dung văn nhân, bạn hữu, nhân vật văn chươngtrên gốm. Ông vẽ đa dạng, từ Victor Hugo, Balzac, Hemingway, Pushkin đến BùiGiáng, Hoàng Ngọc Hiến, Tô Hoài, Lê Lựu. Là một nhà văn vẽ nên tranh chân dungtrên gốm của ông thường có nhiều đề từ thú vị, từ những câu châm ngôn đến tríchđoạn tác phẩm.
Gọi họa sĩ Nguyễn HuyThiệp có lẽ cũng không quá. Thuở mới từ rừng núi Sơn La về Hà Nội, chính nghềvẽ đã nuôi sống nghề văn của ông.
Tài văn chương ông không "di truyền" cho cáccon nhưng ông đã gửi lại hết những mầm hội họa. Hai con trai của họa sĩ đều họcvẽ. Trong đó, Nguyễn Phan Bách đang phát triển nghề nghiệp hội họa với conđường riêng, có nhiều tác phẩm được bán trên các trang bán mỹ thuật quốc tế.
Nguyễn Huy Thiệp sinh năm1950 ở Thái Nguyên, quê gốc ở Hà Nội, qua đời ngày 20/3/2021 tại nhà riêng, thọ71 tuổi. Thuở nhỏ, ông cùng gia đình di tản qua nhiều vùng quê ở Thái Nguyên,Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Ông tốt nghiệp khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội. Ôngxuất hiện trên văn đàn Việt Nam từ năm 1986, với một số truyện ngắn đăng trên Báo Vănnghệ đề tài nông thôn. Ngoài truyện ngắn, ông viết 10 vở kịch, bốntiểu thuyết cùng nhiều tiểu luận, phê bình văn học gây chú ý, được xem là"hiện tượng hiếm" của văn đàn trong nước.
Ông từng nhận huân chương Văn học Nghệ thuật Pháp (2007), giải thưởngPremio Nonino (Italy, 2008). Một số tác phẩm nổi bật của ông gồm truyện ngắn Tướng vềhưu, chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên năm 1988, Những ngọngió Hua Tát (tập truyện ngắn và kịch, 1989), Tiểu LongNữ (tiểu thuyết, 1996), Tuổi 20 yêu dấu (tiểu thuyết,xuất bản ở Pháp năm 2002).
Báo "Nông nghiệp Việt Nam" với Nguyễn Huy Thiệp - Bài của nhà văn Văn Chinh
Theo fb Văn Chinh Đinh - 7/7/2025
---------
Tôi gặp ông tại một quán cà phê Bà Triệu giao Hàm Long. Ông bạn hất hàm đến cái bàn ở xa, nói thầm:“Người ngồi với ông Bội [nhà văn Ngô Ngọc Bội] là Nguyễn Huy Thiệp đấy.”Tôi không đến chào. Tính tôi không thích sấn đến những người nổi tiếng. Mà ông thì đang nổi như cồn, thiên hạ như đang phát cuồng lên vì những truyện ngắn hay đến lạ lùng của Nguyễn Huy Thiệp.Nhà thơ Vũ Quần Phương đọc xong truyện "Phẩm tiết", nói về cô ca nương Hoa Vinh: Hầu ngủ với hai ông vua không sao, chính tà cũng không sao, đó là lao động của nàng. Nhưng khi dấn sâu vào họ, như cử chỉ Hoa Vinh vuốt mắt Gia Long lúc vua băng hà thì phẩm tiết mới bắt đầu bị vấy bẩn. Những ngón tay đen lại, rửa bẩy ngày không sạch. Rồi ông nói: “Truyện của Thiệp khi đã hay thì hay một cách nguyên lý!”Vâng, đúng thế.
Tôi đi tìm và gặp ông ở Đê La Thành, chỗ gần Ô Chợ Dừa. Tôi muốn theo lối cửa sau nhờ ông mua giúp vài bộ sách giáo khoa. Thấy tôi phải lòng vòng tự giới thiệu mãi, ông cắt ngang:“Tôi biết ông. Trước khi cầm bút, tôi tìm đọc hơn 300 nhà văn, ông là người mà tôi nhớ được.” Một lúc sau ông tiếp: “Sao ông đẻ lắm thế. Bây giờ chạy gạo cho con đã bỏ mẹ. Nhưng chạy lớp chạy trường rồi chạy mua sách giáo khoa cho con còn bỏ mẹ hơn.”
“Ông dạy trên Sơn La tới 10 năm mà sao khi chuyển vùng không xin được dạy mà phải đi làm can vẽ?”“Không có tiền. Vợ tôi làm ở Nhà xuất bản Giáo dục, xin cho chân can vẽ tranh minh họa sách giáo khoa. Do công việc, tôi quen bọn nhà in, chúng in ngoài kế hoạch, sai người đi gửi ở các nhà sách. Đây, cái bao tải ở sau xe này toàn sách cả đấy, là suất của tay sếp quen; mình hầu nó lấy công làm lãi.” Lại một lúc sau, ông mới nói tiếp: “Cho nên, sách này ông phải mua theo giá chợ, là giá giao buôn, chứ không phải giá bìa.”“Tôi hiểu. Có như thế ông mới không thiệt mà bố con tôi cũng được nhờ lắm rồi.”“Chỉ có sách của nhà văn mới bán thấp hơn giá bìa, khốn nạn thật.
Đầu những năm 1990, lúc tôi về báo "Nông nghiệp Việt Nam", Nguyễn Huy Thiệp hầu như im bặt. Ông bị các nhà phê bình, gồm chủ yếu là các nhà văn đố kị tài năng, họ không nói thật là mình chỉ quen lối cũ, cũ hành văn tô hồng bôi đen, cũ tư duy ta tốt nó xấu mà nhân danh truyền thống, dùng cái lý luận cũ thời quan liêu bao cấp làm thước đo để chỉ ra sự chệch choạc, sai biệt, hư hỏng của cái mới.
Với những cái “mũ’ nặng nề, Nguyễn Huy Thiệp biến mất khỏi văn đàn. Cho nên, tôi hơi bị bất ngờ khi ông Trịnh Bá Ninh – Trưởng ban Biên tập bảo vào tìm Nguyễn Huy Thiệp xin một cái truyện ngắn cho số Tết [Nhâm Thân 1992? Quý Dậu 1993?]. Tôi nói:“Khó đấy. Ông lạ gì dân viết lách. Thời vận đến, có khi một đêm xong một truyện. Thời vận qua, ì ạch cả tuần mà chẳng được chữ nào.”“Có khó, mới cần đến Văn Chinh vào cuộc chứ dễ thì ai đi chẳng được?”
Trịnh Bá Ninh là một trong những may mắn trong cuộc đời không may mắn của tôi. Đều là dân văn chương trước khi làm báo, chúng tôi trên nét lớn là đồng thanh tương khí, giao - nhận việc không cần nhiều lời, như giữa tiền vệ và trung phong có số má; chứ ông với tôi vốn xung khắc Tý Dậu. Nhưng đó là chuyện khác.
Đường vào làng Cò gian nan lắm. Riêng từ phố Bùi Xương Trạch đến nhà Nguyễn Huy Thiệp quanh co khó tìm xứng đáng để hình dung nơi nhân tài ẩn dật trong tiểu thuyết Kim Dung. Tôi đi lại đây hàng chục lần mà lần nào cũng lạc. Ông uể oải tiếp tôi, đúng kiểu một tay giang hồ nhăm nhe rửa tay gác kiếm:“Truyện hả, không có đâu. Từ nay tôi bẻ bút. Nghề văn, nghĩ cũng có danh lợi; nhưng danh thì hư, lợi thì còm. Tôi in trong Nam một tập truyện ngắn, nhuận bút nó giả nếu đem mua vàng thì chắc được vài chỉ. Nhưng cái khiến tôi bẻ bút không chỉ có vậy. Bọn mình hầu bạn đọc cả nước, tức là làm cho nhân dân sướng khoái, hả hê. Ấy thế mà một bọn phê bình đem bọn mình hạ nhục, vu cho tội phỉ báng, tội Việt gian phản động. Vu mà cấm cãi là lý cố ở đâu?”
“Ông nói đúng. Và hay nữa. Về sau, thể nào tôi cũng viết trong một bài nào đó: Xưa cụ Nguyễn Vỹ bảo Nhà văn An Nam khổ như chó, cụ Tản Đà kêu Văn chương hạ giới rẻ như bèo, còn Nguyễn Huy Thiệp nói Nghề văn, nghĩ cũng có danh lợi; nhưng danh thì hư, lợi thì còm. Nhưng ông có chỗ sai. Sai ở chỗ chúng ta có hầu hạ các nhà phê bình đếch đâu, chúng ta viết vì bạn đọc, tức là vì nhân dân.”“Nhưng in ở báo ông mà chúng nó cứ đánh thì biết làm thế nào?” “Yên tâm. Báo chúng tôi có tôn chỉ dứt khoát là Vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn, trên dưới đồng lòng, đều là cử nhân, ai muốn xui ai đó hiểu sai ác ý với một tác phẩm văn học là không thể tìm được ở báo tôi.”“Tôi vẫn ngại lắm. Viết đã khó, viết xong lại phải cân nhắc nâng lên đặt xuống là làm khó cho ông.”Chẳng chuộc mãi rồi ông cũng nhận lời. Tối ấy uống say, ông và tôi gõ thìa hát:Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh, anh em ơi vì nhân dân quên mình mãi đến khuya.
Tết ấy chỉ khó lúc nhận lời, còn thì hanh thông cả. Báo Tết "Nông nghiệp Việt Nam" vang dội Hà Thành văn giới. Nhà văn Ma Văn Kháng (cũng có truyện in báo) gọi điện khen cả tối giao thừa. Lúc lúc lại nghe chuông điện thoại bàn reo, ấy là khi ông phát hiện thêm những ẩn chứa lạ trong chi tiết nào đó mà lần đọc trước ông chưa phát hiện ra. Khen ông Thiệp chán, ông lại khen chúng tôi, khiến tôi lại phải nghĩ thêm để khen các chi tiết khác trong truyện của ông. Vất vả. Nhưng mà vui. Một tác phẩm nghệ thuật hay làm sướng khoái cả ngàn vạn người. Sướng khoái nhất là Biên tập viên, ở đây là cả Tòa soan báo – nhà hộ sinh cho nó ra đời; sướng khoái thứ nhì là các đồng nghiệp, các cộng tác viên có tố tính liên tài. Ngoài ra mới kể.
Sau vài Tết, Nguyễn Huy Thiệp có đến thăm báo. Tổng biên tập Lê Nam Sơn giữ lễ chủ khách, chỉ ông Trịnh Bá Ninh và tôi tranh nhau nói về truyện vừa đăng, về văn chương văn giới nói chung lúc trà dư tửu hậu. Nhưng những năm sau thì khó dần. Một đằng, các báo trong Nam bắt đầu phát hiên vì sao "Nông nghiệp Việt Nam" số Tết nổi tiếng và họ nhảy vào tranh sản phẩm hàng hóa mang tên truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Hứa hẹn trả nhuận bút tăng gấp đôi rồi gấp ba mức "Nông nghiệp Việt Nam" đã trả.
Đó là thời kỳ gian nan của Thiệp. Các con đã lớn, vào cấp 3 rồi đại học. Ông thì thất nghiệp. Từ cơ sở xuất bản sang Cục Bản đồ, thấy công việc ông chẳng bà chuộc, chán mà bỏ. Các việc làm thêm như trang trí nội thất, sự kiện văn hóa đã thành một ngành kinh tế, sản xuất lắp ráp bằng máy chuyên dụng, ông nhỏ lẻ không kiếm đâu ra việc nữa. Ông mở nhà hàng Hoa Ban bên kia cầu Chương Dương, trong một cái nhà sàn bạn bè cho mượn, dùng danh tiếng mình làm review. Ông Ninh đưa chúng tôi sang đấy nhiều lần để kích cầu, có lần gặp ông Thiệp bất đắc dĩ phải mua mấy quyển sách của ai đó mang đến chào bán. Ông bán sách đi khỏi, ông Thiệp than rằng:“Thằng ăn mày này đi ăn mày của thằng ăn mày kia, khốn nạn thật!”
Trong hoàn cảnh như thế, Nguyễn Huy Thiệp từng mấy lần mang hàng đặt đi bán giá cao hơn. Không sao, ông Ninh bảo, mình đã kích hoạt được giấc ngủ lịm của tài năng. Bác lại phải đi sứ lần nữa thôi. Vâng, tôi lại lần mò đến nơi ẩn dật của tài năng trong thế giới Kim Dung nhiều lần nữa. Có lần sắp tới hạn chót đưa nhà in, ông Thiệp gãi đầu vò tai bảo:“Khó quá. Viết cái gì bây giờ nhỉ, đầu óc rỗng tuếch?”“Bây giờ không nhất thiết phải viết về nông dân nông thôn nữa. Tôi cho rằng, nông dân cũng có quyền biết về đô thị, đô thị xưa hay nay đều lạ lẫm với nông dân.”“Ừ phải. Nhưng viết cái gì nhỉ?”“Trước 1945, làng văn ta có Nam Cao, Vũ Trọng Phụng. Những năm đổi mới, kể ai thì kể nhưng nhất thiết phải có Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài. Ông hãy viết về họ, ai cũng được.”
Khi mang "Bài học tiếng Việt" đến cho chúng tôi, ông Thiệp nói:“Phạm Thị Hoài thì tôi biết kỹ, viết có thể hay nữa, nhưng sợ nó chửi cho. Tài chửi của con mẹ này là đệ nhất, vô địch thiên hạ luôn. Nghĩ mãi, tôi mò sang làng Láng, ngồi trước mộ Vũ Trọng Phụng cả giờ, về viết được cái này. Viết rất nhanh. Hay dở chưa nói, hãy nói cảm ơn ông trước đã. Nhân thể, tôi muốn bái phục ông là tay cao thủ đặt bài, nói vớ nói vẩn mà thành ân tình, không nịnh nọt tự hạ mà khiến kẻ nhận lời mắc nợ.” “Cũng là trong họa có phúc. Xưa nay đặt bài, kị nhất là nói tác giả phải viết cái gì. Lần này bĩ cực mà thái lai. Vậy là vui rồi.”Cứ thế, "Nông nghiệp Việt Nam" có hơn một thập niên báo Tết in đặc sản Nguyễn Huy Thiệp. Một nhà giáo ở Tuyên Quang viết thư về Tòa soạn: “Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên báo Tết cùng với bài Lão Chộp của Trần Đăng Khoa thì cả năm không cần đọc gì nữa cũng không sao.” [Trước khi bàn về ý kiến của ông giáo, xin đọc tóm tắt bài Lão Chộp: Lão Chộp người Hải Dương, là một trong những dân quân bắt được phi công Mỹ nhảy dù xuống cánh đồng mà lão đang cày. Viên phi công ấy là Douglas Peterson, sau này được bổ nhiệm làm Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam (CHXNCN Việt Nam.) Khi mới đến Hà Nội, ngồi chưa nóng chỗ vị Đại sứ cựu POW Douglas Peterson đã xin được gặp lại lão Chộp và cuộc gặp đã diễn ra vui vẻ, hài hước, dân dã dưới bàn phím Trần Đăng Khoa.] Nói như ông giáo có phần hơi quá, chỉ xin coi là một cách khen, kiểu anh si tình nói em đẹp như Tây Thi, chứ không phải một khẳng định giá trị. Nhưng, dù khiêm tốn đến mấy, hẳn ông Lê Nam Sơn, ông Trịnh Bá Ninh và các biên tập viên kỳ cựu của báo đều không thấy chướng khi nói rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã góp phần làm nên, làm vững chắc thêm hiện tượng báo "Nông nghiệp Việt Nam" số Tết trong làng báo nước nhà. P/S
Bây giờ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã thành người thiên cổ và các con ông đã nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật thay cha. Trước linh cữu ông, tôi đã thầm cảm ơn những nỗ lực ông dành cho báo của chúng tôi. Tôi không biết hơn mười năm cộng tác với "Nông nghiệp Việt Nam", [từ 1992 về sau] so với gần mười năm ông cộng tác với báo "Văn nghệ", [1987 về sau] thì ra một tương quan thế nào? Chắc ai cũng biết, giai đoạn trước, ông nổi tiếng, huy hoàng làm một hiện tượng rồi sẽ đi vào lịch sử văn học Việt Nam và ở lại bền vững. Còn giai đoạn sau? Ông vẫn còn nổi tiếng, nhưng có người bảo dư âm nhiều hơn thực thanh. Chả phải.
Trước, ông huy hoàng ở thành phố; sau, ông làm sướng khoái cả ngàn vạn người ở một miền khác, là cố thổ nguyên sơ hơn thành phố; trước, ông lan tỏa, sau ông lắng sâu vào lòng dân tộc. Trước, ông in liên tiếp, làm nên cơn mưa rào mùa Hạ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp; sau, ông viết và in khó nhọc, chỉ làm nên cơn mưa cuối Thu. Trước, ông viết nhanh, viết dễ hay như cô ca sĩ non trẻ xinh đẹp, hát lỡ nhịp đàn cũng không dở; sau, ông là tay giang hồ uể oải về già. Nói một cách khác, Báo "Nông nghiệp Việt Nam" đã khai thác những vỉa quặng sáng tạo cuối cùng – quặng đá quý mang tên Nguyễn Huy Thiệp. Thời gian này, ông không còn những "Tướng về hưu", "Con gái thủy thần", "Những bài học nông thôn" nữa. Đó là những áng văn có vẻ đẹp không ngừng, đọc mãi không chán. Nhưng những "Thương nhớ đồng quê", "Bài học tiếng Việt", "Ông Móng" và "Chú Hoạt tôi"...cũng không đùa được. Chúng là những viên ruby, ngọc lục bảo quý hiếm ngay cả với gia sản Nguyễn Huy Thiệp nói chung. Điều quan trọng hơn, không mắc nợ ân tình với "Nông nghiệp Việt Nam", ông vẫn để chúng vương vãi đâu đó trong một mỏ quặng cũ, của mình. Tôi nói vậy mà có vơ vào, có nói quá thì xin anh linh ông bỏ qua, ông Thiệp nhé.
October 2, 2025
Đọc tập truyện ngắn "Trần gian thưa thớt" của Bạch Lê Quang - bài của Lê Huỳnh Lâm
Nguyên là bài viết Trần gian thưa thớt – Khi nhân cách suy đồi và kẻ trí dửng dưng
Dẫn theo đường link vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tran...
Bạch Lê Quang dạy ngữ văn ở ngoại ô Huế, da anh sạm nắng không phải do hành quân chiến trận mà theo cuộc chiến nhân văn gõ đầu trẻ. Sớm chiều hai chuyến từ phố xá nhộn nhạo về ngoại ô đìu hiu. Đồng nghiệp và bằng hữu cứ ngỡ Quang yên với nghề giáo, nào ngờ trên mặt trận nghiệt ngã của văn chương chữ nghĩa, Bạch Lê Quang lại vào trận chiến một cách bi hùng. Bi ở đây là tình người, tình đời, hùng là khí lực của ngọn bút. Bút chính là kiếm, không phải kiếm của giang hồ hành hiệp, mà kiếm của thư sinh đèn sách. Kiếm của hiệp khách khi đã rút ra tất có kẻ mất mạng. Còn kiếm bút của Quang khi đã viết trên giấy hồng nhan, sẽ khiến Thượng thư hay Đại học sĩ xõa tóc, chau mày…
Với bút kiếm ấy, anh đã công bố nhiều truyện ngắn hay trên các báo trong nước, mãi đến năm 2009, chiều theo ý nhan sắc anh gom các truyện đó lại in thành tập truyện ngắn đầu tiên với nhan đề “Thõng tay vào chợ”. Thời gạo muối thua, vàng lên như nước lũ, nhân tâm rỗng tuếch, còn thứ văn chương nô vụng trở nên phù phiếm, rẻ hơn cả bèo. Vì thế, Bạch Lê Quang muốn làm nên thứ văn chương lộng lẫy, sang quý.
Những vòng xe của ông giáo vẫn đều đặn ngày hai chuyến dạy học ở trường trung học phổ thông phía ngoại ô hắt hiu. Ngoài bài vở giáo án và những cuộc phiêu bồng cùng gió mây, khi đêm vừa tàn, Quang vươn bút trước đèn khuya tịch mịch ghi ghi chép chép những câu tứ ập đến muôn bề, có khi trong một cuộc rượu giữa chiều dông tố, có lúc là tiếng thổn thức của một giai nhân cô quạnh, hay là những đêm dài lênh đênh cùng men rượu để thấu đời, thấu tình và có lúc là giấc mộng đẹp giữa trùng vây điên đảo,… Vậy là, hàng loạt truyện ngắn sắc nét lại xuất hiện với văn phong thúc giục như vó ngựa của tráng sĩ băng rừng, vượt núi, qua kiếm bút: khảm, tước, đề, bằng, đảo,… khiến người đọc rơi vào không khí mà Bạch Lê Quang đã hô mây gọi gió. Và tôi gọi đó chính là bút lực, là tài năng, kiếm khí của nhà văn, như lời tác giả đã viết trong Hồ Trường: “Kiếm quý như kẻ sĩ thời loạn, tung hoành hồ thỉ. Ngọc quý chỉ là kẻ sĩ thời bình. Kẻ sĩ thời bình co đầu rút cổ, ẩn nhẫn tầm lợi danh. Sĩ thời bình dẫu vận nước đảo điên vẫn vỗ ngực khoe ngọc lành, không tì không vết, múa môi nhả chữ, tự cho mình thanh cao, không màng thiên hạ…”.
Điển tích là thế mạnh của Bạch Lê Quang, anh mượn xưa để nói nay, khiến người đọc khi thì rơi vào không khí cổ trang lãng đãng màu sơ ngộ, lúc tưng bừng du hí trên phố hội hiện đại. Quá khứ và hiện tại, xưa và nay đã được ngọn bút Bạch Lê Quang uyển chuyển vẽ nên bức tranh dành cho những tâm hồn hoài cổ bên cạnh những vấn đề rất thời sự trước thời cuộc đảo điên. Trong truyện ngắn Hồ Trường, tác giả muốn nhắn gửi các thế hệ tương lai: “Các chú luôn sợ. Trước quá khứ, đàn cổ, kiếm cổ, thành quách, lăng tẩm, đền đài… Các chú ghi một câu cho xong việc. Câu gì à? Thì đó. Cấm sờ vào hiện vật. Tây Tàu thì không được sờ. Nhưng các chú và con cháu phải sờ, phải nắm. Chúng phải sờ, phải nắm thanh kiếm thứ bảy kia. Để hỏi, để tra vấn, để biết.
Biết gì à? Biết vì sao kiếm gãy. Biết để làm gì à? Tây Tàu thì không cần biết nhưng con cháu thì phải biết. Biết để dẫu một cục đất, một hòn sỏi của mình cũng không để mất.
Mất là có tội. Tội ấy lớn lắm. Trời không dung, đất không tha. Chú biết không?”.
Trần gian thưa thớt là truyện ngắn nói lên hiện thực xã hội được thu lại trong con hẻm của xóm nhỏ với năm nhân vật, và cũng là tên tập truyện thứ hai của Bạch Lê Quang. Cho dù mặt đất này đã hơn bảy tỉ người, cho dù ở đất nước này hơn trăm triệu dân và trong xứ Thần kinh quê hương của nhà văn có hơn một triệu thứ dân,… vậy mà lòng anh vẫn thấy thưa thớt. Thưa thớt ở đây, không phải là do con số mà chính là do lòng người. Trời hỡi, cuộc rượu của ba người đàn ông trong con hẻm cuối xóm nhỏ trở nên khác thường là do xuất hiện một nhan sắc thuê căn phòng của mệ chủ quán rượu. Cái bản năng cơ bản đó đã khiến nội tiết tố trong cơ thể ba vị đàn ông đứng tuổi tăng bất thường, nên họ quên mất cái hiện thực buồn thảm của mỗi ngày. Vì thế, mà cuộc rượu kéo dài đến tận đêm. Trong cơn say, nhân vật thầy cúng đã đốt nhang trong cảm hứng tột cùng khiến ngọn lửa bùng phát. Kẻ nghiêng ngả, người gục mê trong men, lòng hừng hực lửa,… lửa trần gian hòa cùng ngọn lửa ham muốn đã thiêu trụi cái xóm nhỏ, kẻ ôm tranh, người ôm sách, ông ôm tượng Lợn,… cả mệ già chủ quán rượu cũng thoát được cơn hỏa hoạn. Nhưng không hiểu thế nào, cả bốn người lại quên mất cô gái thuê phòng trọ. Quên một nhân mạng là tội ác. Vô cảm trước đồng loại là có tội, huống hồ vô cảm với những người đang gặp nạn là điều mà Bạch Lê Quang muốn cảnh báo cho chúng ta. Anh cảnh báo khi điều đó đã ngập ngụa khắp nơi trong xã hội, đặc biệt đâu đó, cho dù cõi người luôn rêu rao tình người, tình đời,…
Cõi đạm tiên là truyện ngắn mà theo tôi là đắc ý nhất của tác giả, chất liêu trai, huyền ảo khiến cho người đọc bước vào cõi mộng, tài tả cảnh, tả tình cùng thủ pháp dẫn truyện rất phiêu, đã đưa người đọc nhập vào nhân vật lúc nào không hay. Cõi đạm tiên chỉ mượn Đông Các Đại học sĩ để nói về thân phận của người phụ nữ, người phụ nữ mà Nguyễn đã đau xé lòng khi đặt bút viết Kiều. Kiều cũng chính là Trà Châu, Trà Châu cũng là Đạm Tiên,… Đạm Tiên cũng chính là Nguyễn. Trong thế giới hồng nhan đó, thân phận người nữ cũng chính là thân phận của một vùng đất được viết lên bằng máu, viết bằng nỗi đau tài tử – giai nhân.
Đọc tập truyện Trần gian thưa thớt của Bạch Lê Quang trong tang thương ngẫu lục của nhân loại mùa đại dịch, lại thấy trần gian càng thêm thưa thớt khi có những mưu toan trên nỗi đau đồng loại,… dù vẫn còn đó những con người thầm lặng hy sinh. Trần gian vốn vậy, tuy đông, rất đông người nhưng lại thưa thớt. Cũng như chốn quan trường, phường hội, chợ đò đầy rẫy tạp âm của phường mua bán, bán mua.
Mỗi truyện ngắn của Bạch Lê Quang, tác giả như đã hóa thân vào các nhân vật, nhân vật đau chính là nỗi đau của tác giả, nhân vật buồn vui, cũng chính là tâm trạng buồn vui của tác giả. Vậy thì, Trần gian thưa thớt chính là trần gian mà nhà văn Bạch Lê Quang đã thể nhập. Nhập vào cảnh giới thưa thớt mới thấu cái lẽ này. Cái lẽ mà Đại thi hào Nguyễn Du đã ngộ: “Mua vui cũng được một vài trống canh”.
L. H. L.
September 30, 2025
Mấy đoạn văn ngắn của Nhị Linh Cao Việt Dũng viết về Tô Hoài
Mar 26, 2015
Tô Hoài kể chuyện (1)
Việt Namkhông có nhiều nhà văn lớn, nhưng nhà văn quan trọng thì nhiều.
Trong số đó, Tô Hoài là một trường hợp rất đặc biệt.
Một số tác phẩm của Tô Hoài, những ấn bản tương đối đáng nói:
- Quê người, bản Á Châu in ở Hà Nội "trong thành", một ngườibà con với Tô Hoài đứng ra giao dịch tác quyền với nhà xuất bản. Quê người thuộcbộ ba tác phẩm có lẽ đậm chất văn chương hơn cả của Tô Hoài, gồm Quê người,Quê nhà và Mười năm.
- Chuột thành phố, in trong ấn bản đặc biệt của tờ Tiểu thuyết thứbảy (tục bản, giai đoạn Mục Xá), 1949. Vũ Đình Long thông báo vừa tình cờtìm được bản thảo cuốn sách này (tác phẩm lấy bối cảnh Sài Gòn) nên đem inluôn; giai đoạn này Tiểu thuyết thứ bảy là tờ báo rất quan trọng,nhưng sau này ít được để ý đến.
- Trăng thề, không phải ấn bản sớm nhất; với nhiều người, đây chính làkiệt tác của Tô Hoài.
Nhưng tác phẩm văn chương của Tô Hoài không quan trọng bằng các tự truyện vàhồi ký, về cơ bản như dưới đây (quyển Chiều chiều và Sổ tay viếtvăn đang biến đâu mất, chưa tìm ra):
- Tự truyện, ấn bản đầu, 1978
- Những gương mặt, ấn bản đầu, 1988
- Cát bụi chân ai, ấn bản 1993, không phải ấn bản đầu nhưng cũng có thểcoi là ấn bản đầu (1992)
------------------------
Apr 1, 2015
Tô Hoài kể chuyện (2)
Trong "Cỏ dại" (xuất bản lần đầu năm 1944), phần đầu của Tự truyện, Tô Hoàikể, khi ấy còn nhỏ, phải rời vùng Bưởi xuống Kẻ Chợ, ở khu phố hàng, nhà mộtngười bạn của ông bố, khổ sở và cô đơn, cũng không được đi học. Đang trong tìnhcảnh ấy thì vớ được quyển truyện Vô gia đình:
“Một hôm, quét nhà, tôi nhặt được ở gầm bànhọc chú Luyến một quyển sách đã nát và bợt mủn mấy tờ lót cuối cùng. Cuốn Vôgia đình của Nguyễn Đỗ Mục dịch. Tôi đặt quyển truyện vào khe phản, chỗngồi đánh giầy.
Mỗi buổi trưa, cơm xong, tôi ngồi xem lén mấytrang truyện.
Cuộc đời phiêu bạt của thằng bé trong truyện.Tôi mê man theo nó bỏ nhà đi với ông già làm xiếc. Cái lúc thằng bé đứng trênngọn đồi, nhìn lại túp nhà mình dưới làng, trước còn rõ, sau mờ dần. Mắt tôicũng mờ. Rồi nó quay mặt, quả quyết bước theo ông già. Tôi cũng bước theo nó.Cũng buồn, cũng giận, cũng tủi chung nỗi cảm thương với người bạn xa xôi rấtthân thiết đó.
[…]
Tôi nhớ ở làng, lúc nào cũng thấy trời và lácây. Anh bé phiêu lưu trong truyện “Vô gia đình” nhớ con bò và người mẹ nuôi ởquê thế nào, tôi cũng nhớ thấm thía thế.
[…]
Tôi nhớ nhà đến vàng cả người. Bà ngoại tôibảo thế. Giữa tháng chạp, bà tôi ra đón tôi về ăn Tết. Vừa trông thấy bà, mắttôi đã lóa đi.”
(tr.51-54)
Vô gia đình tức Đứa trẻ khốn nạn do Nguyễn Đỗ Mục vàĐào Hùng dịch đây, bản 1931, Tân Việt Nam thư xã, nhà in Tân Dân, 1931.
“Nào Khai-tị! Nào Đạc-nhi! Nào Thụy-nhi! Nào Già-cách-la!”:
Bản dịch này không có tên chương, mà các chương chỉ đánh số, nên khôngcó "tã đẹp nói dối".
+ Nhà văn Việt Nam từ lâu, nhất là hiện nay, hay được chỉ dạy là phải lấy TôHoài làm tấm gương về viết văn, hay nói đúng hơn là trong "lao động vănchương", đều đặn, tỉ mỉ, vân vân và vân vân. Thêm một lời lừa phỉnh nữa,một sự không hiểu nữa. Con đường của Tô Hoài, chỉ một mình Tô Hoài mới đi nổi,nói đúng hơn là chỉ Tô Hoài mới chịu đi con đường ấy.
+ Tô Hoài có "truyền nhân" không?
Mặc cho mọi sự khác biệt, với tôi Nguyễn Huy Thiệp chính là truyền nhân của TôHoài, một cách đúng nghĩa. Ở giữa Tô Hoài và Nguyễn Huy Thiệp là dấu vết lờ mờcủa Nguyễn Khải. Không ai vượt nổi bộ ba ấy trong khoản miêu tả sự thê thảm, đêtiện, lôi thôi, hèn đớn của con người, của con người đồng bằng châu thổ sôngHồng.
-----------------
Aug 15, 2015
Tô Hoài kể chuyện (3)
Giờ, giỗ lễ xong rồi, ta đã có thể nói sâuvào văn chương Tô Hoài.
Đọc đi đọc lại Cát bụi chân ai, chẳng biết đến lần thứ mấy, tôi bỗng nhận ra, mìnhđúng là có mắt như mù, Cát bụi chân aihấp dẫn một cách lạ thường như vậy chính là vì ở nó, lần duy nhất, Tô Hoài đểlộ một số chìa khóa ngõ hầu giúp người ta bước vào một thế giới kín bưng. Mộtlần, chắc là vì hoảng hốt thế nào đó, hoặc có một tâm trạng hơi đặc biệt, TôHoài đã đi chệch một chút khỏi con đường quen, thành ra đã xuất hiện những thứbình thường không bao giờ người ngoài mong thấy được. Về cơ bản, chẳng ai hiểuTô Hoài hết, kể cả những người từng ở rất sát Tô Hoài, rất quan tâm đến TôHoài, nói chuyện rất nhiều với Tô Hoài. Một khi Tô Hoài đã không muốn, thìchẳng ai có thể nhìn thấy gì, mọi thứ cứ lờ mờ. Ấy là vì chủ đích của Tô Hoàichính là tạo ra một sự lờ mờ gầy gùa bao lấy xung quanh. Với văn chương tỉ mỉấy, chỉ có thể dùng một sự tỉ mỉ còn lớn hơn, đừng để xao động bởi bất kỳ cảmxúc gì, thì mới may ra nhìn nhận được.
Giờ đây, với Tô Hoài, tầm vóc ấy, danh tiếngấy, sự lịch duyệt ấy, chỉ còn duy nhất một câu hỏi có nghĩa: văn chương Tô Hoàicó lớn không?
Tôi kinh ngạc khi đọcNguyễn Đăng Mạnh; là một giáo sư văn chương, thế mà trong câu chuyện với TôHoài, Nguyễn Đăng Mạnh chỉ chăm chăm hỏi người ta đồn ông từng ngủ với bà kia,có đúng không. Lẽ tất yếu, với đầu óc như thế, Nguyễn Đăng Mạnh không hề hiểuvăn chương Tô Hoài. Chỉ cần đọc đến chỗ Nguyễn Đăng Mạnh quy văn chương Tô Hoàivề một chữ buồn, tôi đã thấy là hỏng hẳn. Đọc lại Nguyễn Đăng Mạnh viết về VũTrọng Phụng và Nguyễn Tuân, chắc hẳn là những thứ đắc ý nhất trong đời giáo sư,tôi cũng thấy là Nguyễn Đăng Mạnh thật ra chẳng hiểu họ mấy. Văn chương Tô Hoàiphức tạp chính vì nó quá đơn giản. Và nó không hề buồn.
Có hai điều thường xuyên được nêu lên khingười ta nhắc đến Tô Hoài: thứ nhất, các nhà văn trẻ cần học tập tấm gương laođộng chữ nghĩa Tô Hoài, thứ kỷ luật viết văn không quá nệ vào cảm hứng, thậmchí không hề cần đến cảm hứng và thứ hai, Tô Hoài là một chứng nhân lịch sử vàlại rất chịu khó ghi chép tỉ mỉ, nên những chuyện Tô Hoài kể rất đáng tin.
Cả hai điều trên đều rất sai. Tô Hoài khônghề là người trau chuốt, kỹ lưỡng về chữ nghĩa (như Nguyễn Đăng Mạnh nhận định).Chẳng qua là viết quá nhiều, thỉnh thoảng bỗng bật ra một câu là lạ, chữ nghĩanhặt nhạnh khắp nơi bỗng có lúc đắc dụng. Và đừng có dại mà học theo “tấm gươngTô Hoài”: chỉ một mình Tô Hoài mới đi được con đường Tô Hoài từng đi. Điều nàykhông hề bao hàm ý đánh giá tốt hay xấu, giá trị văn chương vẫn có thể nằm ởnhững chỗ khác, bên ngoài cảm hứng, sự trau chuốt v.v… và bản thân Tô Hoài đãlà minh chứng cho điều ấy.
Điều thứ hai thì càng tệ: đừng có dại tin bấtkỳ điều gì Tô Hoài nói, nhất là trong các tự truyện. Cũng như mọi người khác,Tô Hoài thường xuyên nhớ nhầm. Trong Tựtruyện tái bản (không phải bản đầu 1978), Tô Hoài nhắc đến chuyện thời Nhânvăn-Giai phẩm, Hoàng Huế từng viết trên tờ Đấtmới chỉ trích “tác phong” của Nguyễn Tuân. Có nhân vật Hoàng Huế thời ấythật, nhưng không phải Hoàng Huế viết trên Đấtmới.
Hay như dưới đây, trích từ Chiều chiều:
“Cái người thấp, đội mũ lông để ria trông nhưNhật cũng bước lại và nói với tôi:
- Chào anh. Tôi là Lê Vinh Quốc. Tôi có thểdịch hộ anh.
Tôi không quen Lê Vinh Quốc. Nhưng tôi đã đọctrên báo ở Hà Nội của anh bài thơ “thi sĩ máy” hay “thi sĩ gỗ” thế nào đó, tôikhông thuộc. Lê Vinh Quốc sang học bên này rồi ở lại.”
(Chương 16, chuyện xảy ra tại một hội nghịnhà văn ở nước ngoài, đúng lúc Aimatôp đến bắt chuyện với Tô Hoài mà không cóngười phiên dịch ở đó)
Ở đây Tô Hoài đã nhớ nhầm, lẫn lộn, chập LêVinh Quốc với một người khác nữa. Lê Vinh Quốc hồi Nhân văn-Giai phẩm đăng mộtbài thơ, tên là “Những người máy” (và là đăng trên một tờ báo chính thống), còn“Thi sĩ máy” là một tiểu phẩm đăng trên báo Nhânvăn của Châm Văn Biếm, bút danh của Ngô Như Mai (đây vẫn là một bút danh).
Đoạn dưới đây là một đỉnh cao của “phong cáchký ức Tô Hoài”:
“Ở nhà máy xe lửa Gia Lâm, Hồ Dzếnh làm vớitổ sơn toa tàu, được trả tiền công khoán cẩn thận - Hồ Dzếnh bảo tôi thế, tôicũng lây cái ham thích của anh. Hồi ấy, anh cho tôi những tập thơ Rừng phong của Vũ Hoàng Chương Nhà xuấtbản Đông Phương của anh in 1953 và tập thơ thiếu nhi Mấy vần tươi sáng của Trần Trung Phương. […] Trước kia, tôi cũngchỉ biết, không quen Hồ Dzếnh. Khi ấy, anh đã thôi đứng bán hàng tơ lụa choThượng Hải thương điếm, nhà Phan Thái Thành ở Hàng Ngang. Anh đi sửa mo-rát,trông nom nhà in Á Châu xuất bản cục, phố Emin Nôly - đường Châu Long bây giờ,chủ nhà in và xuất bản Nguyễn Bá Dĩnh mượn anh, nhưng Dĩnh cũng là bạn anh. Tậptruyện ngắn Chân trời cũ của anh in ởđấy. Những hôm cạn tiền đi uống, đi ả đào, Vũ Trọng Can và tôi đứng đầu phố đợiNguyễn Bính vào nhà in Á Châu đả tiền Hồ Dzếnh, nhưng cũng như Trúc Đường trongNgũ Xã, anh không kéo lũ đi đàn đúm với chúng tôi.”
Nhà xuất bản Tiếng Đông Phương xuất bản tậpthơ Mê hồn ca của Đinh Hùng vào năm1954, kèm một lời giới thiệu rất nổi tiếng không đề tên tác giả nhưng gần như100% là của Hồ Dzếnh. Tập thơ Rừng phongcủa Vũ Hoàng Chương in năm 1954 ở cơ sở xuất bản Phạm Văn Tươi trong Sài Gòn,chứ không in ở Tiếng Đông Phương. Tô Hoài luôn luôn lấn bấn với cặp Vũ HoàngChương-Đinh Hùng này.
Nhưng ở đoạn trích trên, điều đáng nói nhấtlà sự im lặng của Tô Hoài ở một điểm liên quan đến chính Tô Hoài. Ai rành vănhọc sử Việt Nam đều biết, viết như thế kia tức là Tô Hoài ngầm tố cáo Hồ Dzếnhtừng in sách trong thành Hà Nội trước 1954, “thời tạm chiếm”. Chỉ có điều, cũngchính nhà Á Châu đã in sách của Tô Hoài, ít nhất là quyển Quê người. Điều này thì Tô Hoài lẳng lặng giấu đi.
“Phong cách ký ức Tô Hoài” hoạt động rất mạnhkhi đối tượng là những người mà Tô Hoài không ưa. Ta đã biết, Tô Hoài rất ghétViệt Nam Quốc dân đảng, Đệ tứ, Sài Gòn sau 54. Đây là đoạn về Vũ Anh Khanh,người từng thân cận Thẩm Thệ Hà, tại miền Nam cuối thập niên 40 đầu thập niên50:
“Lại cũng ở đơn vị như Lê Lựu, Vũ Anh Khanhmiền Nam tập kết. Vũ Anh Khanh là cây bút trẻ ở Sài Gòn rồi vào chiến khu. Đoànnhà văn Việt Nam đi thăm Ấn Độ, Lưu Quí Kỳ giới thiệu với tổ chức và Vũ AnhKhanh được đi cùng Nguyễn Công Hoan. Ở Ấn Độ về, Vũ Anh Khanh lại trở về đơnvị. Nhưng cái anh tiểu đội trưởng đội phó Vũ Anh Khanh đã mờ mờ đi đâu mất rồi.Người ta được Thủ tướng Nêru tiếp, người ta rong thuyền chơi sông Hằng. Về đơnvị cảm thấy đây chật chội quá, đây không phải đất dung thân. Nửa đêm, Vũ AnhKhanh đã bơi qua sông Hiền Lương. Vũ Anh Khanh gặp nước cường bị chết đuối hayVũ Anh Khanh mới ra đến cái bãi cát giữa dòng đã bị dân quân tóm được. Khôngbiết, việc thì tình cờ, nhưng không tình cờ ở con người.”
(Chiềuchiều, Chương 8)
Những chuyện “khẩu thiệt vô bằng” chĩa vàonhững người mà Tô Hoài không thích được Tô Hoài liên tiếp tung ra, thường làtheo một cách thức lửng lơ, như thể là tiện miệng mà nói. Trong Chiều chiều ví dụ như chuyện Quang Dũngsang Trung Quốc gặp Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, hoặc chuyện Phan Khôi kể vềnhững người Quốc dân đảng ở 80 Quan Thánh. Trong Cát bụi chân ai thì mật độ những câu chuyện này lớn khủng khiếp.
Theo tôi, Chiềuchiều được viết ra là để giảm bớt mức độ cho Cát bụi chân ai, mà bản thân Tô Hoài chắc cũng nhận thấy là quá đà.Về cơ bản, Chiều chiều viết rất dở,kém xa Tô Hoài thông thường, và đặc biệt kém so với Cát bụi chân ai. Chiều chiềucũng lặp lại quá nhiều nhưng đồng thời bỏ sót một số điều lẽ ra cần nói, chẳnghạn như cái tác phẩm “Bà ký Đường” quan trọng như thế, được Tô Hoài dùng để kếtlại cho Chiều chiều, thì Tô Hoài tảnglờ không nhắc đến số phận của tác giả Nguyễn Khắc Mẫn, một nhà văn quá chánchường mà bỏ lên miền núi (Lạng Sơn thì phải), một dạng Nguyên Hồng khác.
Trong Cátbụi chân ai, Tô Hoài kể nhiều chuyện nhất về ba nhân vật lớn: Nguyên Hồng,Văn Cao và Nguyễn Tuân, nhưng Nguyên Hồng và Văn Cao đều hiện lên rất xấu xí,cực kỳ xấu xí (sang đến Chiều chiều,Đặng Đình Hưng và Nguyễn Sáng bị thế vào chỗ những nhân vật bị dìm xuống này,nhưng mức độ đã giảm đi nhiều, về cơ bản hình ảnh của họ không xấu lắm, chứtrong Cát bụi chân ai, một nhân vậtNhân văn-Giai phẩm khác là Trần Dần cũng được nhắc tới, vô cùng thảm hại, dẫuchỉ là lướt qua). Theo tôi, về cơ bản, Cátbụi chân ai là sản phẩm của một cơn hoảng hốt trộn lẫn với mặc cảm ở Tô Hoài.Tôi có biết về sự ra đời của cuốn sách, giống như là vơ lấy tất cả mà đem in,thành ra bản thân tác giả cũng không kịp sửa chữa. Cát bụi chân ai kể những câu chuyện theo tôi là bốc phét, mà TôHoài dùng để thanh toán ân oán xưa. Đặc biệt là liên quan đến Vũ Hoàng Chương(cái sự tích “mười hai tháng sau” và “mười hai tháng Sáu”): tôi nghĩ lúc ấy TôHoài mới đọc hồi ký Ta đã làm chi đời tacủa Vũ Hoàng Chương và phát hiện ở trong đó mình bị miêu tả ngớ ngẩn, thảm hạiquá.
Những chuyện như thế, tôi không thấy tốt hayxấu. Khi đọc Tô Hoài, tôi chỉ cố gắng sao cho mình đừng có cảm xúc gì. Tỉ mỉnhưng không có cảm xúc. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhầm một điều cơ bản: văn chương TôHoài không buồn, bởi vì văn chương ấy không buồn không vui, mà nó không có cảmxúc. Cả điều này nữa cũng không tốt chẳng xấu. Nhưng phải hiểu rõ như thế thìmới nắm được văn chương của Tô Hoài. Tôi từng nhiều lần nhìn thấy Tô Hoài, cólần chỉ ở cách Tô Hoài chừng mươi bước chân, nhưng chưa từng bao giờ tôi có hammuốn trò chuyện với Tô Hoài, tôi tin là đối với văn chương ấy, cần phải giữkhoảng cách thì mới nhìn rõ được.
Đọc lại Chiềuchiều, tôi mới nhận ra bản thân Tô Hoài cũng từng đọc Kaputt của Malaparte. Nhưng không biết có ai nhận ra chưa: Tô Hoàinói đến sách vở mà không bao giờ hào hứng. Tô Hoài đã quá nổi tiếng vì nhữnglời chê thơ Đinh Hùng và Hoàng Cầm. Có vẻ như Tô Hoài chẳng bao giờ thấy có vănchương nào hay, không đặc biệt hào hứng với bất kỳ ai. Đây không phải là mộtvăn chương tiết chế, kìm nén cảm xúc, mà là một văn chương thực sự không có cảmxúc. Điều ghê gớm của văn chương Tô Hoài nằm chính ở đó, từ đầu đến cuối nókhông cần sự chi viện của các cảm xúc. Cũng chính bởi vậy, khi động đến nhữnggì kinh khủng, như trong Ba người khác,văn chương ấy càng ghê rợn.
Mặc dù tôi chỉ muốn nhìn nhận văn chương TôHoài, nhưng cũng có lúc không thể tách rời văn chương với con người được. Vềbản thân mình, Tô Hoài nhìn nhận như thế nào? Ngay từ “Cỏ dại” (được viết từtrước 1945 và sẽ nằm đầu tiên trong tập Tựtruyện 1978) đã có một chi tiết rất nhiều ý nghĩa: Tô Hoài kể lẽ ra mìnhtên là Liên, nhưng vì trùng tên với ông hay cụ của nhà hàng xóm, người ta sangvật nài, nên đổi thành Sen. Đây là một chi tiết đặc vị văn chương, thậm chí là“tự huyền thoại hóa”. Trong Chiều chiều,trái với mọi trông đợi về sự tự thú nhận, Tô Hoài thoáng nói qua về sự son sắtthủy chung trong cuộc sống vợ chồng của mình.
Vậy sự thật có thể nằm ở đâu? Với Tô Hoài thìkhó nói về “sự thật” lắm. Có một lúc, như thể buột miệng, trong Chiều chiều, Tô Hoài viết:
“Tôi là con ếch Cu Ba, ở rừng thì da xanhthẫm lá rừng, ở ruộng mía thì đổ màu lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ,chấm vàng như cánh hoa rơi.”
Sự thật có thể gần gần như thế. Nhưng chưahết. Hồi Nhân văn-Giai phẩm, Tô Hoài đã làm những gì, và thế nào mà thoát thângọn ghẽ thế? Trong cuộc họp đấu tố Trần Dần và “Nhất định thắng”, ta không thấynhắc tên Tô Hoài. Điều này rất lạ. Hoàng Cầm là phó giám đốc cho Tô Hoài đứngđầu nhà xuất bản Hội Nhà văn, nhưng Hoàng Cầm thì thê thảm, Tô Hoài thì không,như vậy là thế nào? Có lúc Tô Hoài động phớt qua những điều này trong Chiều chiều:
“Sau vụ NhânVăn mà tôi có sai sót, tôi đã đề nghị cho đi học trường dạy viết văn Gorkyở Matxcơva. Nguyễn Khải được chấm đi, còn tôi thì xin đi. Tôi nghĩ chỉ bỏ ra ítnăm ăn chắc một ngoại ngữ lại đưa hiểu biết và nhận thức của mình tới được mộtbước mới. Nhưng rồi dự định ấy trên không chấp nhận. Lý do: Người sáng tác thìnắm thực tế đời sống đất nước là cần hơn.
Năm sau, Nguyễn Minh Tấn ở viện Văn học đượcđi học viện Gorky. Tôi thắc mắc thì nghe giải thích: Anh ấy làm nghiên cứu, cầnđi.” (Chương 7)
Nhưng chẳng có gì là cụ thể hết cả.
Cũng trong Chiều chiều, có những lúc Tô Hoài dường như nói rất thật, chẳng hạnnhư thuật lại lời Phan Khôi nói với mình:
“Tôi chưa xem bài nào của anh. Chẳng biết anhviết có ra cái gì. Nghe có người nói anh viết truyện con giun, con dế.” (Chương3)
Nhưng dẫu có là thế nào, trước hết Tô Hoài làmột người ngoại thành Hà Nội, và tôi chưa từng thấy có văn chương nào đậm dấuấn ngoại thành Hà Nội như văn chương Tô Hoài. Người tỉnh khác, người ở xa đếnkhông thể có ấn tượng mạnh về Hà Nội như người ở vùng ven (cái vùng ven ở sátsạt nhưng lại như nơi đồng không mông quạnh, năm chết đói dân nội thành đượccứu tế phát chẩn gạo trong khi người làng Tô Hoài chết như rạ, vì chỉ cứu đóiđến Thụy Khuê, tức là cách nhà Tô Hoài vài trăm mét - Tô Hoài kể trong Chiềuchiều), điều này Tô Hoài đã thể hiện rất rõ trong “Cỏ dại”, nhất là khi,hồi bé, được gửi lên ở trên khu phố cổ, tròn mắt với trò đua xe đạp của mộtngười họ hàng. Điều này sẽ in dấu sâu đậm lên văn nghiệp Tô Hoài, mặc cho TôHoài có viết bao nhiêu tác phẩm về miền núi, về Tây Bắc, các ký sự đường xa,nước ngoài đi chăng nữa: một tập truyện ngắn không được biết đến nhiều của TôHoài tên là Người ven thành, và mãiđến Chiều chiều, Tô Hoài lại nhấnmạnh mình là người “ven nội”, ở đoạn kể về mấy năm theo học ở trường Nguyễn ÁiQuốc, nghĩa là trên phố Hoàng Quốc Việt, chính xác ở vùng quê nhà của Tô Hoài.
Ta hiểu một người ngoại thành như Tô Hoài cóthể bị hấp dẫn trước một sự ngông nghênh điển hình Hà Nội như thế nào, ta cóthể thấy Tô Hoài đã tập trung quan sát Nguyễn Tuân chăm chú ra sao, và bởi vậymà Nguyễn Tuân trở thành trung tâm trong Cátbụi chân ai, khi mà sự thẳng băng, buồn tẻ của văn chương Tô Hoài bỗng tanloãng để chợt xoáy lên một cách bất ngờ.
Sự hấp dẫn này (rất có thể nó xuất phát từmặc cảm) lại trộn lẫn với một cảm giác mà Tô Hoài dường như chưa bao giờ có: sựhốt hoảng. Có vẻ như những biến chuyển của thời cuộc đã làm Tô Hoài cảm thấychông chênh, đúng vào cái lúc Tô Hoài nghĩ là cần tạo ra một hình ảnh về bảnthân mình cho hậu thế, và vậy là ở đầu cái thập niên 90 ấy, Tô Hoài bỗng viết Cát bụi chân ai. Vốn dĩ Tô Hoài đã rấtgiỏi trong việc tạo ra huyền thoại, mà đỉnh cao rực rỡ nhất là trường hợp NamCao. Tất nhiên, những điều này không tốt cũng chẳng xấu.
Trước Cátbụi chân ai, văn nghiệp của Tô Hoài lúc nào cũng được giữ ở mức bình lặng,không bao giờ chói lên. Viết rất nhiều, nhưng Tô Hoài sẵn sàng nhận lấy về mìnhmột sự mờ nhạt rất đặc trưng. Không bao giờ Tô Hoài là người nổi bật, có nhưvậy thì mới trôi qua được quãng 1945 một cách yên bình, qua được cả đận Nhânvăn-Giai phẩm mà không chịu mấy thiệt hại. Như tôi đã nói ở trên, có lúc trong Chiều chiều Tô Hoài tự nhận mình giống“con ếch Cu Ba” (không rõ thực sự là con gì) thay đổi tùy theo môi trường,nhưng nói như thế vẫn chưa đúng. Bản thể Tô Hoài, văn chương của Tô Hoài, gầnnhất với kiến.
Con kiến không có cảm giác, mà mọi thứ ở nóthuần túy là hóa học. Và kiến thích nghi nhanh khủng khiếp. Một nhà văn từngviết bộ sách ba tập về kiến, vô cùng thấu đáo, là Bernard Werber. Ngay cả nếucó bom nguyên tử nổ, thì kiến cũng sẽ tự điều chỉnh để thích nghi ngay lập tức,mà không bị tuyệt diệt. Con người thì có thể biến mất khỏi trái đất, chứ kiếnthì không. Đường đi của kiến rất mờ, rất khó nhìn, kho tàng của kiến rất bímật, không trông thấy được bao giờ, và cái nhìn của kiến rất đặc biệt. Trong Chiều chiều, có nhiều lúc Tô Hoài thểhiện cái nhìn ấy, dưới đây là một ví dụ:
“Thử cười, không gật cũng không lắc. Anh tuổichuột, tên Thử, người loắt choắt, dáng rụt rè tinh tướng con chuột nhắt.” (Chương8)
Một người tên là Thử, lại có tướng tinh conchuột. Tô Hoài nhận ra ngay những điều như thế. Và không hề ngẫu nhiên khi TôHoài có một con dế mèn lừng danh đến vậy.
Nhưng hành trình kiến của Tô Hoài bị xáo trộnvào lúc Tô Hoài thấy là cần phải sắp xếp hậu thế cho chính mình. Cách nhìn đặctrưng kiến của Tô Hoài dẫn đến một lựa chọn rất chính xác: cần phải bám lên mộtngọn núi duy nhất ở trong tầm tay với, đó chỉ có thể là Nguyễn Tuân. Thời điểmấy, những ngọn núi khác chết cả rồi, hoặc đã ở quá xa. Điều này dĩ nhiên khôngtốt cũng chẳng xấu, chỉ có thể nói đó là một lựa chọn rất giỏi.
Một con kiến có thể ở rất cao, vì kiến thì cóthể bò lên ngọn cây, hoặc đỉnh núi, nhưng cái cao ấy là một ảo giác. Dẫu saothì như thế cũng đã là rất giỏi.
Trong Chiều chiều, Tô Hoài tả con ráicá, rồi con rắn hổ mang ở Thái Bình rất tởm, chúng đều cắn đứt cổ vịt (hai convịt ấy Hoàng Trung Thông rồi Phùng Quán đều không dám ăn), nhưng con vật đángnhớ nhất trong những tự truyện của Tô Hoài nằm trong Cát bụi chân ai: đólà con kỳ đà. Con kỳ đà xuất hiện ở đoạn cuối cuốn sách, và đó không phải làlần duy nhất nó xuất hiện trong Cát bụi chân ai. Về cơ bản, kỳ đà là mộtgiống vật đáng ghê tởm. Kiến thì không, nhưng kiến nhận ra những điều như thế.
--------------------------------
Jul4, 2011
Sách (XXXVII)
TôHoài
Hànhtrình của Tô Hoài dường như là một hành trình mẫu mực của tiến lên: xuất pháttừ một nhà văn "chiếu dưới", "nhóc con" (Tô Hoài hiện ratrong hồi ký Ta đã làm chi đời ta của Vũ Hoàng Chương thật là khôi hài,vớ vỉn và công tử bột, không xứng đáng ngồi chung mâm với các bậc đàn anh gióbụi phong trần), giờ đây Tô Hoài là một tượng đài. Người ta đã nói nhiều vềđiều này, và dù nói gì thì nói, yêu ghét có là như thế nào, Tô Hoài vẫn cứ lànhà văn của vô vàn tác phẩm, trong đó có những tác phẩm chắc chắn ngoài Tô Hoàikhông một ai viết nổi.
Ngoài những người như Sơn Nam, Toan Ánh (và gần đây hơn cả là Bảo Ninh), TôHoài thuộc "các tác giả của nhà xuất bản Trẻ". Mới đây NXB Trẻ in haicuốn, Nhớ quê và Chùa giải oan. Nhớ quê gồm 11 bút ký,dưới bài đều ghi viết từ lâu lắm rồi. Tôi không thực sự rành Tô Hoài nên khôngbiết những bài này đã in ở sách nào trước đây hay chưa, nhưng đoạn sau đây thìchắc chắn đã xuất hiện (ít nhất là đại ý) trong Chiều chiều hoặc Cátbụi chân ai:
[tác giả sống tạm một thời gian ở một ngôi nhà ven chợ Hôm, làm hàng xóm vớivài trí thức trẻ thuộc đủ mọi khuynh hướng chính trị, trong bối cảnh chung làtình hình hỗn loạn và nhiều đội quân tình nguyện Nam tiến chiến đấu với Pháp]:
"Buồng bên của y sĩ Dục, mà Dục bắt người ta phải đọc đủ chữ: "Bác sĩDục thuộc ngành y tế Đông Dương". Nhưng không thấy Dục chữa bệnh và đilàm. Dục tuyên bố đã khám phá ra trong thuyết "bất bạo động" củathánh Găng đi có nhiều điểm hòa đồng với triết học Đệ tứ Quốc tế. "Bất bạođộng" và "cách mạng thường trực" của Tờrốtky sẽ hất sạch sànhsanh tất cả các nền triết học già cỗi của nhân loại. Nhiều tay hơi hướngTờrốtky hay đến chơi, khách khứa một buồng lắm khi cũng thành khách cả nhà.Phòng của Dục ồn nhất, cứ oang oang. Một hôm, chẳng biết Mỹ nghe tin ở đâu, vềbảo: "Thằng Lương Đức Thiệp vẫn đến nhà này ấy mà, nằm nhà đá rồi".Dục im lặng. Hồ Hữu Tường vào phân trần với từng buồng: "Trước tớ đệ tứ,giờ tớ là Việt Minh, Việt Minh chính hiệu". Rồi khoe: "Phái đoànChính phủ hội đàm với Pháp ở Đà Lạt, ở Phông-ten-bờ-lô đều phải mời quân sư cốvấn Hồ Hữu Tường, bí mật nhé. Chứ cái mặt mẹt thằng Bảo Đại thì cố vấn, cố thâycho ai." Có mấy cậu tập tễnh làm báo, xin được phép ra tờ Thống Nhất, đitìm mưu sĩ trong đám bè bạn Dục, không biết báo này ra được số nào chưa. Nhiềungười biết tên chỉ vì báo được khoe cho xem cái ma két, trang bìa thi sĩ ĐinhHùng vẽ con cua một trăm cái chân tròn xoe. Rồi các cậu ấy rút trong cặp ra mấybài bảo là đã đập bản in thử, bị kiểm duyệt gạch chéo bút chì đỏ. Lúc mọi ngườiđọc bài báo bị bỏ, các cậu ấy vênh mặt, đảo mắt nhìn người nọ người kia, vẻ anhchị nghề báo ta đây làm báo phải ngang ngạnh thế" (Nhớ quê,"Hà Nội 1946", tr. 22-23).
Tô Hoài có vẻ cấn cái và hay úp mở về số phận Lương Đức Thiệp (vào thời điểmnày còn chưa bị giết). Cách miêu tả Hồ Hữu Tường rõ ràng là không hay ho lắm.Nhưng đoán được nhân vật "Dục" là ai thì tôi thấy hơi khó. Người tênlà Dục ở vào giai đoạn này, có hoạt động báo chí, trí thức, quen biết nhiềungười đủ loại, hẳn là Đỗ Đức Dục (tức Trọng Đức, sau này dịch nhiều tiểuthuyết, trong đó có Vỡ mộng của Balzac, Phó tổng thư ký Đảng Dân chủViệt Nam), hồi này là nhân vật chủ chốt của tờ Thanh Nghị. Nhưng Đỗ ĐứcDục thì lại chẳng bao giờ làm thuốc cả, thế mới phiền.
Hình con cua trăm chân của Đinh Hùng thì hẳn là tôi đã nhìn thấy, nhưng khôngnhớ ra là nhìn thấy ở đâu.
September 26, 2025
“Giáo dục lòng căm thù” – Một bi kịch của nền giáo dục hậu chiến
CỤM TỪ NGHẸN NGÀO
Tôi đã từng uất nghẹn khi bắt gặp trong văn kiện, trong sách giáo khoa, thậm chí trong khẩu hiệu, cụm từ: “giáo dục lòng căm thù”.
Nghe qua, tưởng như đó là một mệnh lệnh mang tính “cách mạng”, như một thứ ngọn lửa để khích lệ chiến đấu. Nhưng càng nghiền ngẫm, càng thấy đau: căm thù vốn là phi giáo dục. Giáo dục là gieo hạt, là nuôi dưỡng, là khai mở nhân tính. Lòng căm thù chỉ làm chai sạn tâm hồn, làm con người thu hẹp vào hố sâu chia rẽ.
Đất nước ta từng trải qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm. Nhưng chưa bao giờ tổ tiên dạy con cháu “căm thù”. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo từng viết:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.”
Sau chiến thắng, cha ông còn cấp thuyền, ngựa, lương thực cho quân giặc về nước. Đó là minh triết của kẻ chiến thắng: chiến đấu để giành độc lập, nhưng không gieo thêm hận thù. Vậy mà, thời hậu chiến, chúng ta lại biến “căm thù” thành một nội dung giáo dục. Ấy là một trượt dài – và cần phải nhìn thẳng.
TRUYỀN THỐNG NHÂN BẢN CỦA DÂN TỘC
Không phải ngẫu nhiên mà sử Việt luôn toát lên tinh thần khoan hòa sau chiến tranh.
– Thời Trần, sau khi đánh tan Nguyên Mông, thay vì tận diệt, triều đình mở hội nghị Diên Hồng, lo chuyện phục hồi đất nước, và còn cấp ngựa, lương thực cho tàn quân rút về.
– Nguyễn Trãi soạn văn kiện để tuyên bố với thiên hạ rằng người Việt “lấy nhân nghĩa làm gốc”, không lấy hận thù làm kim chỉ nam.
– Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh ở Đống Đa, không đem xác thù ra phơi thây, mà cho chôn cất tử tế, rồi gửi biểu cầu hòa.
Từ cổ chí kim, dân tộc này đánh giặc không phải để nuôi căm thù, mà để giành lại sự sống cho mình. Đánh giặc xong, việc cấp thiết nhất là hàn gắn vết thương, chứ không phải truyền đời sự hận hằn.
Ấy vậy, truyền thống nhân bản ấy đã bị bóp méo trong một giai đoạn.
KHI GIÁO DỤC TRƯỢT KHỎI BẢN CHẤT
Sau 1975, trong khí thế toàn thắng, đất nước thống nhất, những tưởng giáo dục sẽ lấy yêu nước, yêu người, khoan dung, sáng tạo làm gốc. Nhưng không, một đường ray khác đã được dựng nên: giáo dục lòng căm thù giai cấp, căm thù “kẻ thù dân tộc”.
Trong sách giáo khoa, học sinh phải thuộc lòng những bài văn, bài thơ gieo mầm thù hận. Trong trường học, nhiều phong trào, khẩu hiệu vang lên với âm hưởng: “Nhớ ơn căm thù…”, “Đời đời căm thù đế quốc…”.
Câu hỏi đặt ra: lòng căm thù có nuôi dưỡng nhân cách không?
Không. Nó chỉ nuôi dưỡng sự đối lập và nghi kỵ. Thay vì giúp thế hệ trẻ hiểu quá khứ, để trân trọng hòa bình, nó lại biến quá khứ thành vết thương chưa khép.
Ở mức chính sách, “căm thù” còn được sử dụng như một thứ công cụ chính trị – để duy trì kỷ luật tư tưởng, để buộc người trẻ phải đi theo một “đường thẳng” có sẵn. Nhưng giáo dục mà thành công cụ, thì đã mất đi bản chất.
HỆ LỤY XÃ HỘI
Hãy nhìn những hệ quả:
– Chia cắt tâm thức dân tộc: “căm thù” khiến thế hệ trẻ nhìn đồng bào miền Nam, kiều bào hải ngoại bằng ánh mắt nghi kỵ. Thay vì hòa hợp, lại đào sâu hố ngăn cách.
– Nghi kỵ lẫn nhau: hận thù giai cấp khiến xã hội thiếu niềm tin. Người ta dè chừng nhau theo “lý lịch”, thay vì đánh giá bằng năng lực.
– Kìm hãm sáng tạo: căm thù nuôi dưỡng sự tiêu cực, không giúp con người cởi mở. Trong khi sáng tạo cần khoan dung, cần thấu hiểu.
– Làm nghèo đi tình người: khi “căm thù” trở thành giáo điều, thì lòng nhân ái, sự bao dung – vốn là phẩm chất cốt lõi của người Việt – bị lu mờ.
Nói một cách cay đắng: chúng ta đã trồng căm thù, và gặt cô đơn, chia rẽ, hoang mang.
SO SÁNH QUỐC TẾ – BÀI HỌC CẦN NHÌN
Thế giới không thiếu những dân tộc từng trải qua chiến tranh. Nhưng cách họ giáo dục thế hệ trẻ sau chiến tranh khác ta rất nhiều.
– Đức sau Thế chiến II: không dạy học sinh “căm thù” ai cả. Họ đưa trẻ em đến trại Auschwitz để hiểu bi kịch chiến tranh, để từ đó nuôi dưỡng tinh thần hòa bình, nhân bản, trách nhiệm. Họ nói: “Không bao giờ nữa” – chứ không gieo hận thù.
– Nhật Bản: sau Hiroshima, Nagasaki, trẻ em được dạy về hậu quả của bom nguyên tử, về giá trị hòa bình, chứ không phải “căm thù nước Mỹ”. Kết quả là Nhật trở thành quốc gia sáng tạo, vươn lên bằng tri thức, chứ không bị nhấn chìm trong oán hận.
Nếu Đức và Nhật gieo căm thù, liệu họ có thể hòa giải, có thể trở thành cường quốc kinh tế, có thể là bạn với cả thế giới?
TRÁCH NHIỆM VÀ NGUYÊN NHÂN
Ai phải chịu trách nhiệm về sự trượt dài ấy?
– Nhà hoạch định chính sách: đã chọn cách dễ nhất để duy trì sự trung thành – gieo hận thù, thay vì nuôi dưỡng trí tuệ.
– Người làm giáo dục: không dám phản biện, buộc phải “soạn bài giảng căm thù” như một bổn phận.
– Xã hội: thụ động chấp nhận, coi đó là lẽ thường.
Nguyên nhân sâu xa chính là tư duy chính trị hóa giáo dục. Khi giáo dục bị biến thành công cụ chính trị, thì mục tiêu “trồng người” bị lấn át bởi mục tiêu “củng cố chế độ”.
ĐIỀU CẦN SỬA SAI
Đã đến lúc cần dũng cảm sửa sai.
– Xóa bỏ khái niệm “giáo dục lòng căm thù” khỏi mọi văn bản, sách giáo khoa.
– Thay thế bằng “giáo dục lòng nhân ái, khoan dung, yêu nước, yêu hòa bình”.
– Học theo Đức, Nhật: dạy trẻ em nhìn thẳng vào bi kịch chiến tranh để rút ra bài học nhân bản, chứ không để nuôi hận thù.
– Trả giáo dục về đúng bản chất: dạy trẻ làm người tử tế, có trách nhiệm, biết tôn trọng sự khác biệt.
Quan trọng hơn: cần một sự thành thật trong chính sách. Đừng dùng giáo dục để duy trì hận thù. Hãy dùng giáo dục để tạo nên những thế hệ công dân biết xây dựng.
VÌ TƯƠNG LAI CON EM CHÚNG TA
Một dân tộc không thể mãi sống trong bóng tối của căm thù. Thế hệ cha ông đã trả giá bằng máu để đất nước được độc lập. Thế hệ hôm nay phải có trách nhiệm trả lại cho con trẻ một nền giáo dục nhân bản – chứ không phải giáo dục căm thù.
Nếu không, chúng ta sẽ tạo ra những con người mang nặng quá khứ nhưng hụt hẫng với tương lai.
Giáo dục là gieo trồng. Xin hãy trả lại cho giáo dục Việt Nam hạt giống yêu thương, nhân ái, sáng tạo và trách nhiệm. Đó mới là con đường để dân tộc đi xa.
Đã đến lúc phải thẳng thắn nói ra: “Giáo dục lòng căm thù” là một sai lầm. Và sai lầm ấy cần được sửa ngay – để chúng ta có thể ngẩng cao đầu trước thế hệ mai sau.
Tô Hoài – bài của Tưởng Năng Tiến
Một ngày phiên chợ, u tôimua về đôi gà nhỏ. Hai con gà: một trống, một mái, dáng còn bé tí teo, như vừamới lìa đàn. Suốt ngày chúng cứ rúc vào một góc sân và kêu chim chíp bằng mộtgiọng ai oán, thảm thương!
Ðó là đôi câu ngăn ngắn,trong tập truyện (O Chuột) của Tô Hoài mà tôi đã được cô giáo đọc chonghe khi còn thơ ấu. Sao tôi cứ thương mãi đôi gà nhỏ côi cút đó, và có cảmtình mãi với tác giả của đoạn văn vừa dẫn.
Tô Hoài có thể sẽ sướngngất ngư, khi biết có độc giả đã nhớ nằm lòng (suốt đời) những con chữ củamình. Ông (có thể) cũng sẽ tức điên luôn, nếu biết thêm rằng: tôi chưa baogiờ đọc thêm bất cứ một trang hay dòng nào khác nữa trong hàng trăm tácphẩm của ông.
Tôi sinh trưởng ở miền Namnơi mà trẻ con không đeo khăn quàng đỏ, không thi đua lập chiến công, cũngkhông có kế hoạch (lớn/nhỏ) nào phải hoàn thành hay vượt chỉ tiêu. Chúng tôichỉ có việc học với chơi thôi, và chơi mới là chuyện chính. Tôi quá mải chơinên không có thì giờ để đọc Tô Hoài, hoặc bất cứ ai.
Sau khi cuộc chiến Bắc/Namchấm dứt, thỉnh thoảng, tôi cũng có ghé vào những hiệu sách quốc doanh nhưngkhông bao giờ ngó ngàng gì đến Tô Hoài. Dù bắt đầu từ đây, cũng như bao nhiêungười dân miền Nam khác, cuộc đời của tôi (bỗng dưng) hoá rảnh. Rất rảnh và rất… đói!
Tác phẩm duy nhất mà tôithực sự tâm đắc, vào thời điểm đó, là Hồ Chí Minh Toàn Tập – dù tác giảviết nhiều đoạn hơi (bị) dở. Thí dụ như: “Không có lực lượng gì ngăn trở đượcmặt trời mọc. Không có lực lượng gì ngăn trở được loài người tiến lên. Cũngkhông có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội phát triển.”
Tôi chết được chứ chảbỡn đâu, Giời ạ!
Mặt trời chứ bộ mặt trậnsao mà đòi lấy lực lượng ra ngăn trở. Tương tự, có cái lực lượng mẹ rượt nào màngăn trở được loài người tiến lên, cha nội? Viết như thế mà cũng bầy đặt cầmbút.
Ngoài những lỗi lầm nho nhỏkhông đáng kể (như trên) phải nói đây là một công trình đồ sộ, rất đáng đồngtiền bát gạo. Sách rất dầy, giấy in rất tốt, giá rất rẻ, và rất được những bàhay những cô bán hàng rong ưa chuộng.
Họ cần giấy để gói. Còntôi, tôi cần một phần ăn nhiều hơn số tiền trong túi. Do đó, dù có đói thảmthiết tôi cũng chả bao giờ (dại dột) sà ngay xuống mẹt xôi hay mẹt bánh. Tôiluôn luôn chịu khó đi vòng qua tiệm sách, tìm cho bằng được mấy cuốnTuyển Tập Hồ Chí Minh, cho đỡ khổ cái dạ dầy!
Trong hoàn cảnh ấy, nóitình ngay, lỡ mà có thấy những tác phẩm của Tô Hoài chắc tôi cũng chỉ ngó lơthôi. Mắt tôi lúc nào cũng chỉ dáo giác, liếc nhìn ra biển, tìm một đường chui.
Trời thương, tôi chui lọt!
Lưu lạc mãi rồi có hôm tôitình cờ gặp lại Tô Hoài, trong tác phẩm phê bình văn học (Cây Bút, Ðời Người)của nhà phê bình văn học & xã hội Vương Trí Nhàn, do công ty PhươngNam xuất bản. Đến lúc này thì tôi đủ tuổi đời, đủ rảnh (và cũng đủ no) để cóthể tìm đọc thêm chút đỉnh về một tác giả mà mình đã yêu thích, từ khi còn bé.Và đến thời điểm này thì Tô Hoài đã bước vào tuổi bát tuần.
“Ngay từ năm 1940, khi bắttay làm quen với giới sáng tác đương thời, thì đồng thời tác giả Dế mèn cũngbước vào hoạt động cách mạng. Lúc đầu ở thời kỳ Mặt trận bình dân, ông hoạtđộng trong cơ sở Hội ái hữu thợ dệt Hà Ðông. Sau đó lại được tổ chức Ðảng ở HàNội bắt liên lạc để hình thành nên lực lượng Văn hoá cứu quốc.
Tiếp đó, từ sau 1945, nhữnghoạt động xã hội của nhà văn ngày một đa dạng. Triển khai theo chiều rộng, cólúc ông trở thành cán bộ địa phương, có thời gian đi cải cách ruộng đất, đi họctrường Ðảng, nhiều năm làm đối ngoại nhân dân, đồng thời vẫn giữ chân trưởngban đại biểu dân phố (1956–1972) ở cơ quan văn nghệ trên Trung ương hay ở HàNội, hầu như từ năm 1946 tới nay, khoá nào ông cũng được bầu làm bí thư chi bộ,đảng bộ. Mặt khác, ngay trong giới cầm bút, ông cũng luôn luôn có hoạt động xãhội của mình, khi là Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn, khi chủ tịch Hội Văn nghệ HàNội, từ đó đẻ ra cơ man nào là đầu việc, là họp hành, mà người ta gọi chung làcông tác” (s.đ.d. tr. 264).
Tiểu sử Tô Hoài lung tung,lang tang (ngổn ngang cả đống chức vụ) nhưng không để lại một ấn tượng đậm nétnào về đời người và cây bút của ông. Tô Hoài như luôn bị nhấn chìm vào nhữngđoàn đội hay đoàn thể (vớ vẩn) gì đó, “với cơ man nào là đầu việc”.
Thực là một cuộc đời chánngán và nhạt nhẽo, tôi đoán thế.
Tôi lầm đấy. Ðược thế thìđã phúc.
Cuộc đời của Tô Hoài chánngán hẳn có thừa nhưng nhạt nhẽo thì chưa chắc, và đắng chát với tủi nhục (xemra) không thiếu – nếu vẫn theo như ghi nhận của nhà phê bình văn học Vương TríNhàn:
“… bao nhiêu từng trải, nhưcòn in dấu vào cách sống, cách chuyện trò của Tô Hoài hôm nay, bên cạnh cáinhũn nhặn lảng tránh, con người ấy thật cũng đã nhiều phen phải dàn mặt, phảichịu trận, nói chung là phải đối chọi với đời và nếu như có lúc phải đầu hàngthì đó cũng là bước đường cùng, rồi, nín nhịn chẳng qua để tồn tại, và sau hết,để được viết”.
“Ấy là cái điều không chỉTô Hoài biết mà nhiều người cũng biết… Ðại khái có thể hình dung như cái cảnhđứa bé bị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn.Xá gì chuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy”. (s.đ.d. tr.266).
Tôi thực muốn ứa nước mắt,xót xa cho “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài, khi biết rằng (đôi lúc) ôngvẫn phải qùi như thế. Tôi còn e rằng Vương Trí Nhàn cũng chỉ khéo miệng mà nóithế (để đỡ tủi thôi) chứ chuyện “đùa bỡn” và “tha hồ tung tẩy” làm sao tìm đượctrong “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài!
Tôi trật!
Tôi thành thật xin lỗi vìđã quyết đoán một cách hấp tấp về văn nghiệp, cũng như tư cách, của Tô Hoài.Ông ấy quả là có “tròn” (và đôi khi “tròn lắm”) nhưng không đến nỗi “trònmãi”, hay “tròn hoài”, như tôi đã tưởng!
Đúng như nhà phê bình vănhọc Vương Trí Nhàn đã ví von, có thể hình dung Tô Hoài “… như cái cảnh đứa bébị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn. Xá gìchuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy.”
Tô Hoài đã “tung tẩy” khôngdở trong tác phẩm Ba Người Khác. Talawasđã có đôi lời giới thiệu khá trang trọng về tác phẩm này:
“Cuốn tiểu thuyết 250 trangcủa nhà văn Tô Hoài (NXB Đà Nẵng vừa ấn hành) đang làm xôn xao dư luận trong vàngoài giới văn học. Cuộc toạ đàm về tiểu thuyết này do Hội Nhà văn Hà Nộitổ chức tại trụ sở Viện Văn học sáng ngày 22 tháng 12 năm 2006 đã hầu như mộtcuộc vinh danh lão tướng văn chương 87 tuổi”.
Trong cuộc tọa đàm này, nhiều vị thức giả đã khôngngần ngại lên tiếng:
Hoàng Minh Tường: “Cuốn sách thể hiện sự dũng cảm và tư cách công dân của nhà văn Tô Hoài.” Nguyên Ngọc: “Cách viết hay, độc đáo về CCRĐ. Không viết về nông dân mà viết về ba anh đội. Hoá ra cái thảm kịch của đất nước, xã hội, là do ba cái anh lăng nhăng. Những cuốn khác viết về nông dân là nạn nhân, nhưng đây là lại là thủ phạm. Ba kẻ chẳng có kiến thức gì cả, tự nhiên làm đảo lộn hết cả xã hội…” Nguyễn Xuân Khánh: “Cuốn sách đã chạm tới một vấn đề rất nhạy cảm là Cải cách ruộng đất (CCRĐ)… Tôi chợt liên tưởng tới cách chữa bệnh về tinh thần cho con người. Người thầy thuốc, bằng những biện pháp tâm lý, tìm cho ra cái nguyên cớ sinh ra bệnh tật. Tức là làm cho nguyên nhân bệnh từ vô thức chồi lên ý thức”. Lại Nguyên Ân: “Tôi nghĩ, đối với xã hội ta, sự xuất hiện những cuốn sách như cuốn này là một cách giải toả cho một trong những chấn thương của xã hội ta. Sự kiện CCRĐ để lại một chấn thương trầm trọng ai cũng biết, nhưng những người giữ quyền ăn quyền nói ở xã hội ta lại muốn xoá đi bằng cách cấm mọi người nhắc đến”.Tôi có giấy phép hành nghềtâm lý trị liệu của tiểu bang California, và kiếm cơm nhờ đó. Có lẽ vì chútméo mó nghề nghiệp, tôi “chịu” quá những nhận định (rất Jungian và Freudian)thượng dẫn.
Tuy thế, tôi vẫn không tinrằng những tác phẩm văn học (kể cả loại kiệt tác) có thể “giải toả” những“chấn thương xã hội” do cuộc C.C.R.Đ gây ra.
“Do pháp trị thiếu sót màCải cách Ruộng đất đã hỏng to đến thế.” Nguyễn Hữu Đang đã viết (như thế) trênbáo Nhân Văn số 4, phát hành ngày 5 tháng 11 năm 1956. Dù chậm, chúng ta cầnphải nhìn vấn đề cho minh bạch và “chính qui” y như vậy.
Họa cộng sản sẽ qua, và sắpqua. Ngoài C.C.R. Đ, còn nhiều “vụ động trời” khác nữa – Nhân Văn, Xét Lại, ĐổiTiền, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Mười Ngày Học Tập, Thu Vàng Bán Bãi Vuợt Biên… – chưa xử và bắt buộc phải xử, trong tương lai gần.
Vấn đề không phải là đểtruy thù hay báo oán. Truyền thống văn hoá bao dung dân tộc Việt không cho phépbất cứ ai thực hiện điều đó. Tuy nhiên, quá khứ cần phải được thanh thoả – vàkhông thể thanh thỏa bằng một (hay vài) cuốn truyện– để chúng ta đều cảm thấyđược nhẹ lòng, và an tâm hơn khi hướng đến tương lai.
Bác Tô Hoài thản nhiên như nước -- bài của Hồ Anh Thái
Nguồn
http://vannghequandoi.com.vn/binh-lua...
------
Thản nhiên để viết
Chúng tôi thường gọi ông cụ ấy là bác Tô Hoài. Không nói “nhà văn Tô Hoài”, không nói “ông Tô Hoài”, mà là bác Tô Hoài.
Bác Tô Hoài là cây đa cây đề trụ vững hàng chục năm ở Hội Văn học nghệ thuật Thủ đô. Thế cho nên khi tôi được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội thì có người cười: Chắc Hội Thủ đô đã đổi mới? Hay là Hội để bọn trẻ nó trèo lên cổ mấy ông già? Người ta nói thế vì tôi ba mươi lăm tuổi được bầu vào Ban Chấp hành Hội. Còn năm 2000 tôi làm Chủ tịch Hội nhiệm kì đầu, báo chí viết lâu lắm mới có người làm chủ tịch một hội nhà văn ở tuổi bốn mươi. Bốn mươi thì vẫn là “nhà văn trẻ”.

Tôi hay đến thăm bác Tô Hoài, lúc thì đến nhà trong cái phố cụt Đoàn Nhữ Hài, lúc thì ở nhà con gái bác trong khu tập thể Nghĩa Tân. Có khi tôi gọi điện báo trước, cháu sắp đến. Có khi chẳng báo trước, cứ thế mà đến, đến thì thấy bác đang ra mở cánh cửa sắt như là có linh tính.
Tôi thích nhiều tác phẩm của Tô Hoài, đặc biệt là tập hồi kí gây dư luận Cát bụi chân ai. Có lần bác cho tôi mượn bản thảo tập hồi kí tiếp theo là Chiều chiều, chưa gửi in. Chữ viết tay nhỏ li ti. Ở Hội Nhà văn Việt Nam ngày trước chỉ có vài nhân viên đánh máy quen chữ của bác, khi nghỉ hưu rồi, bác vẫn hay quay lại nhờ họ đánh máy. Một số chữ có dấu sắc “không cần thiết” thì bác có thói quen bỏ dấu: hêt sạch, ich lợi, quả ơt, sưt mẻ…
Ngồi nói chuyện ở nhà trong khu Nghĩa Tân, có lúc bác dẫn tôi ra quán bia hơi cách đấy vài chục mét. Bác hướng về ông chủ trung niên đang chạy qua chạy lại đưa bia cho khách, nói vừa đủ nghe: Ông này đi Đức về, có ba con gái. Người nào việc nào rành rẽ đâu ra đấy. Hay đến chơi như vậy, có ngại làm mất thời gian của bác hay không? Thì chính bác đã bảo: Tôi thì lúc nào cũng bận mà lúc nào cũng cứ là “chiều chiều”. Nhà báo từ Sài Gòn ra, đến đặt bác viết bài. Thói quen cẩn thận của người làm báo, trước khi ra về, nhà báo nhắc: Bác viết đúng hẹn cho cháu nhé. Bác Tô Hoài đáp: Cô yên tâm, ngày rộng tháng dài. Thú vị. Bác Tô Hoài lúc ấy gần chín mươi rồi, thế mà vẫn đủng đỉnh “ngày rộng tháng dài”.
Bác Tô Hoài sinh năm 1920, đến chín mươi tuổi mà vẫn viết hàng ngày, viết đều đặn, viết minh mẫn. Sách in và tái bản, thống kê được là khoảng 150 cuốn. Đầu xuân 2010, Hội Nhà văn Hà Nội chúng tôi tổ chức chúc thọ bác tại nhà. Thuê bàn ghế giản đơn, đặt ngay ngắn trong cái sân nhỏ ở khu Nghĩa Tân, mang hoa quả bánh kẹo đến. Một bó hoa và một phong bao mừng tuổi. Chín mươi xuân, nhà văn vẫn nói năng hóm hỉnh nhẹ nhàng. Hôm ấy, tôi mang tặng bác một con dế mèn bằng đá. Tình cờ thấy con dế mèn trong một hiệu đồ lưu niệm ở Sa Pa, thế là nghĩ mình phải mang nó về Hà Nội cho bác Tô Hoài. Hôm ấy, tôi còn nhắc rằng bác có dự định viết hồi kí về những câu chuyện tình. Có chứ, tôi sẽ viết, bác bảo.
Làm quản lí ở Hội Nhà văn Hà Nội, không ít khi tôi gặp chuyện gây ức chế hoặc có nguy cơ phản ứng bột phát. Những lúc ấy, tự lấy làm lạ, chả lẽ thời công tác ở Hội, bác Tô Hoài không bao giờ nóng nảy, không bừng bừng phẫn nộ, không cãi cọ với bất kì ai?
- Không. Không bao giờ đến mức ấy. Tôi vẫn nghĩ chẳng đáng gì.
Lại hỏi bác có khi nào ngồi ở văn phòng Hội mà bất chợt tự thấy đang làm những việc thật là vô nghĩa. Ông già lại cười cười, hình như một câu nói lại thoảng qua, đừng có để mọi việc làm bận tâm, không viết được nữa. Chẳng đáng gì.
Chẳng đáng gì. Ngẫm cho cùng ở cái cuộc đời vô thường này cái gì cũng đáng mà cái gì cũng chẳng đáng. Sự thản nhiên ấy chỉ có ở người đã ngộ. Chưa bao giờ Tô Hoài nói chuyện về Phật giáo, nhưng tôi nghĩ ở bác có điều gì đó như là giác ngộ, như thành chính quả. Không hẳn là cái đắc đạo của người hiểu giáo lí, mà của người sống nhiều, sống kĩ, ngộ qua con đường trải nghiệm.
Có người ví thái độ sống của Tô Hoài là thản nhiên như nước. Dòng chảy tự nhiên có thể là sức nước đẩy thuyền, là nước chảy đá mòn, nước cũng là môi trường đón nhận và thanh lọc mọi thứ. Hầu như ai đặt bài là viết, không ngại dăm ba bài báo vặt làm hư hại uy tín. Không ngại nhận việc này việc khác bị người ta kêu là tham. Không ngại. Nước đón nhận mọi thứ, rửa sạch mọi thứ trong lòng nó.
Vấn đề là ở chỗ phải tu luyện thế nào để có thể trở thành nước.
Phải là nước thì mới có thể theo dòng lên thác xuống ghềnh như thế. Không phải là bác đã vô trùng miễn nhiễm được giữa thời cuộc, nhưng duy trì được việc viết, và viết có chất lượng, đấy là cách tốt nhất thể hiện đạo đức của nghề.
Phải là nước mới thản nhiên được trước những điều bất như ý trong và ngoài hội đoàn. Qua bác Tô Hoài, tôi biết nhiều chuyện về thời trước của các hội viên kì cựu. Ông tác gia giữa cơ quan ôm mặt khóc hu hu rằng Khrushchev đưa di hài Stalin ra khỏi lăng rồi, tôi đi tự tử đây. Thế là ông Chế Lan Viên chỉ mặt mắng: Anh đương ngồi với những người đứng đắn cả, anh không được nói dối, tôi thách anh dám đi thắt cổ đấy… Rồi chuyện hai ông nhà thơ cao ngạo “chỉ chơi với nhau chứ chẳng chơi với ai”. Rồi chuyện ông nọ một thời phải im lặng, giờ thời thượng trở lại, “chúng tôi từng đặt biệt danh ông ấy là Vương” - bác không giải thích nhưng rõ ràng hàm ý ông ấy một thời nếu khốn khổ thì cũng là vì cái mồm, nói năng như vương như tướng. Rồi chỉ bằng vài chữ mà bác bình đích xác, thơ ông nọ giống như “giấy trang kim”. Một thứ giấy sặc sỡ, bóng bẩy, thường dùng để trang trí hoặc làm hàng mã…
Có khi nói chuyện thế sự, tôi mang mấy cái băng video phim gốc mua ở Mĩ, chất lượng hình ảnh tốt, đem đến văn phòng Hội thuyết minh cho bác xem. Phim Vĩnh biệt ái thiếp của Trần Khải Ca và Phải sống của Trương Nghệ Mưu về cách mạng văn hóa Trung Quốc. Phim Mặt trời thiêu đốt của Nikita Mikhalkov về số phận trí thức Liên Xô thời Stalin.
Chiều chiều ngồi đối diện bác Tô Hoài, tôi thường xuyên có cảm giác thú vị như đối diện một ẩn số. Sức khỏe ở đâu mà sang tuổi chín mươi vẫn miệt mài ngồi viết hàng ngày? Xem ra cả đời bác không gắng công thể dục thể thao gì quá mức. Hình như nhờ sự bình ổn điều độ mà giữ được sức lao động. Cảm hứng ở đâu ra mà vẫn bền bỉ đều đều như vậy?
Vẫn còn điều bí ẩn hơn cả: Làm sao để sống thản nhiên như bác, mà viết? Lối sống ấy xem ra thích hợp hơn cả với người làm nghề văn. Chứ lãng mạn quá, nồng nhiệt quá, tôn thờ văn chương quá đi đến lí tưởng hóa nghề, lí tưởng hóa mọi điều… thì sao cũng có lúc giận người, giận đời, giận mình rồi quay ra thấy cái vô nghĩa của nghề. Hết muốn viết.
Chữ nghĩa là gốc của văn chương
Tô Hoài quan niệm, gốc rễ của nghề văn là ngôn ngữ. Thì đúng là như vậy. Người nhiều chữ, dồi dào chữ, điều khiển được chữ thì mới diễn tả được tư tưởng và cảm xúc. Có những cây bút vốn đi nhiều hiểu rộng, tình cảm đầy tràn, nhưng chữ nghĩa thì nghèo và khô cứng, kết quả là sách viết ra không thể hiện được cái tài thực của mình.
Tô Hoài chú trọng tìm chữ, thấy chữ nào hay chữ nào mới trong dân gian là ghi nhớ. Có khi tự cấu tạo từ mới, thao tác theo kiểu sử dụng nguyên âm hoặc phụ âm sẵn có ghép với một phụ âm hoặc nguyên âm khác, ra một từ tượng thanh mới, tượng hình mới. Trên cành lúc lỉu những quả. Chữ lúc lỉu này bây giờ đây đó có người dùng lại thành quen quen, thực ra ban đầu là của Tô Hoài. Phụ âm e lờ gợi cảm giác lung lay lủng lẳng. Hai vần úc ỉu gợi cảm giác lúc nhúc chen chúc. Lúc lỉu là quả rất sai, chen chúc đung đưa trên cành.
Cũng chỉ trong hệ thống ngôn ngữ của Tô Hoài, mới thấy cụm chữ cỏ xanh eo éo. Nó xanh là màu sắc, chứ đâu phải là âm thanh mà eo éo lên như vậy. Nhưng mà nó xanh rợn xanh biếc xanh đinh tai nhức óc, xanh như bật lên cả âm thanh rất chua giọng mái. Xanh eo éo.
Cũng là bác Tô Hoài từng kể, cứ băn khoăn mãi câu Kiều: Một vùng cỏ áy bóng tà/ Gió hiu hiu thổi một và bông lau. Cho đến lần đi thực tế ở Thái Bình, thấy dân vùng ấy gọi cỏ áy là loại cỏ bị héo bị ngả vàng, cỏ úa. Lúc ấy nhà văn mới nhớ ra Thái Bình là quê mẹ Nguyễn Du, đại thi hào đã dùng một chữ của quê ngoại, cũng như đã dùng nhiều chữ của quê nội Hà Tĩnh trong Truyện Kiều.
Viết tự truyện, hồi kí, bút kí, những hồi ức kiểu chuyện cũ Hà Nội, Tô Hoài chủ ý chỉ viết những điều mình thấy mình biết, không viết những gì mình chỉ nghe người khác kể lại. Bác kể trong hồi kí là mình học hành dở dang rồi đi làm cách mạng. Nhưng cái dở dang của anh Nguyễn Sen, tên chào đời của bác, cũng giúp cho nhà văn Tô Hoài tự học thêm để đọc được sách tiếng Pháp. Tô Hoài thích nhà văn Ý Alberto Moravia, thích những cuốn như Thiếu phụ thành Rome, Hai người đàn bà… Bác đọc những cuốn này bằng tiếng Pháp từ rất lâu trước khi sách được dịch ra tiếng Việt. Văn Tô Hoài không ảnh hưởng cái khúc chiết sáng rõ của tiếng Pháp mà hơi dích dắc lan man, theo dòng cảm xúc chập chờn sương khói. Văn chỉ viết những gì mình biết nên cái hiểu cũng là hiểu những gì thiết thực rõ ràng. Nhà văn xa lạ với những học thuyết, những tâm trạng trí thức phức tạp, như kiểu triết gia Trần Đức Thảo có lần nói với Tô Hoài: “Đã lâu, tao không còn muốn quen thêm một ai trên đời này nữa”. Nhắc lại, Tô Hoài bình: “Nghe câu triết lí cùn mà xa xôi, mà lạnh lẽo, tôi đành chịu” và nhấn thêm: “Người đã sợ cả người” (Chiều chiều). Lối nghĩ thiết thực rõ ràng và nhập thế kiểu Tô Hoài thì chắc hẳn phải coi những quan niệm như vậy là xa xôi. Không khác được.
Một người viết suốt đời, không bỏ phí một chi tiết nào trong đời mình, không phí một chi tiết nào thu nhận được từ đời sống. Có lẽ là không. Tô Hoài khác hẳn một vài bạn viết cùng thời, khác với những vị suốt đời chỉ dọa viết. Chữ “dọa” là của bác Tô Hoài. Ông ấy chỉ dọa viết chứ không viết thật. Ông ấy viết tên truyện lên đầu một trang giấy trắng, kẹp trang giấy ấy vào một tấm bảng, để trước mặt. Bao nhiêu ngày tháng trôi đi vẫn chỉ có cái tên truyện, không bắt đầu viết được chữ nào.
Tô Hoài nói phải ngồi vào bàn và huy động cảm hứng đến. Đêm nằm nghĩ ra ý tưởng, nghĩ thì hay ho lắm, nhưng sáng ra ngồi vào bàn thì chữ nghĩa bỏ đi đâu hết. Bác Tô Hoài không nói thêm, nhưng tôi hiểu đấy là một cách làm việc chuyên nghiệp: Nhà văn tài năng là người có đủ kĩ năng để chủ động khơi dậy cảm hứng chứ không thụ động chờ nó đến. Chờ thì có khi chẳng bao giờ cảm hứng đến.
Nhà văn làm gì cũng chỉ để nhằm một mục đích là viết được. Yêu đương. Rong ruổi du ngoạn. Làm việc. Tất cả đều phải gây thêm cảm hứng cho việc viết. Yêu mê mải, đi mê mải, lên diễn đàn tuyên ngôn mê mải… rồi không viết được nữa, thì đấy là điều hại cho nhà văn. Chung cuộc, người ta hỏi nhà văn tác phẩm của anh đâu, chứ không nghĩa lí gì mà biết anh đã trải bao mối tình, đi bao nhiêu chuyến gần xa, khuấy động được bao người trên những diễn đàn ồn ào to tát.
Nghề văn cũng như mọi nghề làm hàng. Viết bài báo tết, Tô Hoài gọi là làm hàng tết. Hầu như ai đặt viết cũng nhận, hầu như báo nào đặt bài cũng nhận. Thập kỉ chín mươi của thế kỉ hai mươi, tôi đặt bác Tô Hoài viết cho một chuyên mục theo kiểu chuyện cũ Hà Nội. Viết. Đều đặn hàng tuần. Bài có khi bị tòa soạn cắt bớt. Có khi nhuận bút hơi thấp. Cầm báo và nhuận bút đến cho bác, tôi tỏ ra áy náy. Nhưng bác Tô Hoài đặt tờ báo và phong bì nhuận bút sang bên, dẫn tôi sang quán bia cạnh nhà, chuyện trò như không. Đấy là xử sự của một người từng trải, một người làm báo đã thành tinh, việc cắt bài, việc hạ nhuận bút không hề xa lạ. Cắt cũng được, trả bao nhiêu cũng được. Tự tin. Không phải vì thế mà suy giảm giá trị của mình.
Một lần tôi kể vừa mua cuốn sách mới của một nhà văn lão làng, rồi đưa cho bác ấy kí lưu niệm. Tô Hoài gật đầu: Ừ, như vậy lịch sự hơn. Đúng là lịch sự hơn người cứ gặp tác giả là nhắc nhở tặng sách.
Đời là những chuyến đi
Bác Tô Hoài đi nhiều. Thời Tây Bắc kháng chiến, dọc ngang khắp rừng núi, viết Vợ chồng A Phủ, sau này là Miền Tây. Thời hòa bình sau 1954 thì được điều đi làm cải cách ruộng đất, đi vào đời sống của công nông gọi là tìm hiểu thực tế. Rồi làm quản lí ở Hội Nhà văn Trung ương được mời đi khắp các nước xã hội chủ nghĩa và các nước thế giới thứ ba. Đi đến mức ông bạn là nhà văn Nguyễn Tuân phải nói thành thực: Mày mới là thằng đi nhiều, tao chỉ là đi vờ mà thôi. Tô Hoài kể lần cuối cùng gặp nhau, Nguyễn Tuân bảo vừa từ chối một chuyến sang Paris, đôi chân phong thấp đi lại đã khó khăn. “Cái tâm sự nát lòng của người ta thì không một lời chữ nào thổ lộ và giãi bày cho hết được. Hai cái chân đã rỗng cả ống của con người vốn khỏe đi ấy gây cái khó vô cùng cho sự đi, xóa mờ cả tấm tình sông hồ rồi” (Cát bụi chân ai). Tô Hoài thấy vậy, không dám khoe rằng mình sắp đi Cát Bà, không thể khoe với người muốn đi mà không đi được nữa.
Nhiều chuyến tôi đi dự hội nghị nhà văn nước này nước nọ về, bác Tô Hoài hỏi chuyện đi những đâu làm những gì, rồi bình một câu: Tôi bây giờ có cho đi như thế cũng chẳng đi được nữa.
Không chỉ là tấm gương lao động, Tô Hoài có lẽ cũng là tấm gương sống nhiều sống thọ. Cứ sống bình thản trước mọi sự, không giận dữ, không dồn sức, không tự gây khó cho mình bằng những cố lên cố lên. Làm việc không ngừng nghỉ, tham gia công việc của cơ quan của phường phố, tản bộ ung dung chứ không nhất thiết phải gắng sức tập tành… Cứ thế mà đi gần trọn một thế kỉ.
Mấy năm cuối, bác Tô Hoài mắt mờ, không đọc được nữa. Tôi nhớ bác Tô Hoài đọc báo hàng ngày, đọc từ bài dài cho đến những mẩu tin con con, “đọc rất tốn báo” như lời bác nói. Rất tốn sách nữa. Bác Tô Hoài nhận được sách tặng của mọi người, đọc, ghi lại đôi dòng để nhớ, rồi bỏ cuốn sách.
Bác Tô Hoài bảo đọc là học, đọc cái dở cũng học được. Đúng là vậy. Không phải học theo cái dở, mà rút được kinh nghiệm từ cái dở. Không nên dẫn chuyện kiểu này, không nên lộ quan điểm và cảm xúc kiểu này, không nên sử dụng ngôn ngữ kiểu này. Một lần, chị bạn văn bảo tôi đang ở xa, vậy để chị mua cuốn sách mới của tôi mang đến cho bác. Tôi phải nói ngay: Chị đừng làm thế, mắt bác giờ không đọc được, sao lại đưa sách đến.
Những điều này, tôi nhớ lại khi đang ngồi giữa thủ đô Tehran của Iran, vào những ngày tuyết bắt đầu rơi cuối năm 2013. Ngồi ở đấy mà nhớ Hà Nội lúc này có lẽ đang chuyển lạnh. Lại nghĩ bác Tô Hoài chín mươi ba rồi, chẳng phải là ngày rộng tháng dài như bác nghĩ đâu. Thế là thấy cần phải viết, muốn độc giả đọc được những điều mình đang viết về bác lúc này, còn một khi bác đã đi rồi, mình không viết gì cũng được.
Đúng là bác Tô Hoài còn kịp nghe đọc bài của tôi vừa in trên báo. Sau đó một thời gian, tôi được tin bác ra đi, ngày 6/7/2014. Tôi không thấy quá hẫng hụt vì phải tiễn biệt bác từ xa. Điều quan trọng là đã được chia sẻ gần gũi đến như vậy khi bác còn trên dương thế.
Ngày 29 tháng 7 năm 2020
H.A.T
September 23, 2025
Tự sướng với lòng yêu nước? bài Nguyễn Hoàng Văn
19-9-2025
Tìm kiếm tài liệu liên quan đến “diễn ngôn Đoàn Hương”, tôi bắt gặp một clip của nhà khoa bảng gây tranh cãi này trên trang Youtube: “Hiếm có dân tộc nào mang tinh thần yêu nước trong GEN như người Việt Nam!” [1]
Nghĩa là, không chỉ yêu nước hạng nhất, nhì nhân loại, người Việt còn hơn hẳn những dân tộc khác với tình yêu nước bẩm sinh, yêu ngay từ… đại phân tử DNA chứa mật mã di truyền chứ không tầm thường như thứ tình yêu… nhân tạo, chỉ yêu do bị nhồi sọ, do tác động của bộ máy tuyên truyền. Lời bà này làm tôi nghĩ ngay đến câu thơ của Bảo Sinh:Tự do là sướng nhất đời
Tự lừa còn sướng bằng mười tự do
Tự lừa để sướng thì cũng có nghĩa là “tự sướng”, nên nói theo Nguyễn Huy Thiệp, đó cũng chẳng khác nào một hình thức “thủ dâm chính trị”, hệ quả từ một cái nhìn hẹp hòi, thiển cận [2].
Để hiểu sự hẹp hòi này thì tốt nhất, hãy lắng nghe ông Václav Havel (1936-2011), một trí thức khả kính, từng là Tổng thống Tiệp Khắc rồi Tổng thống Tiệp, xuất thân là một nhà thơ, nhà soạn kịch và là nhà bất đồng chính kiến kiên cường. Trong cuộc phỏng vấn đăng tải trên báo New York Times vào ngày 30/12/1989, chỉ một ngày sau khi trở thành Tổng thống Tiệp Khắc, ông bày tỏ:
“Tôi là người Tiệp. Đây không phải là chọn lựa mà là số phận của tôi. Cả đời tôi sống trên đất nước này. Đây là ngôn ngữ, là nhà của tôi. Tôi sống ở đây như bất cứ ai khác. Tôi không cảm thấy tôi là người ái quốc bởi vì tôi không cảm thấy rằng làm người Tiệp là cái gì đó hơn hẳn người Pháp hay người Anh, người Âu hay bất cứ ai khác. Tôi không hiểu tại sao Thương Đế lại muốn tôi làm người Tiệp. Đó không phải là chọn lựa của tôi. Nhưng tôi chấp nhận điều đó và vì tôi đang sống ở đây, tôi phải cố làm điều gì đó cho đất nước tôi” [3].
Ông Havel không huênh hoang là mình yêu nước. Ông cũng không ưỡn ngực “tự hào quá Tiệp ơi” với ngụ ý rằng làm người Tiệp thì cao quý hơn là làm người Anh, người Pháp người Đức hay người Nhật v.v… Tuy nhiên, với tư cách là một nhà cầm bút sống giữa sức ép của chế độ toàn trị mà không hề thỏa hiệp, không bán rẻ lương tâm mà, hơn thế nữa, còn ngẩng cao đầu như một nhà bất đồng chính kiến quả cảm, ai cũng phải thừa nhận rằng ông, như một cá nhân, đã thể hiện một nhân cách cực kỳ cao quý và với những gì đã “cố làm cho đất nước” thì lại là một nhà ái quốc vĩ đại.
Từ một nhân cách cao quý nhưng hết sức khiêm cung như thế mà quay trở lại với trò tự sướng trong clip nói trên, sẽ thấy có cái gì đó kỳ kỳ, lố bịch, sống sượng. Nhưng lố bịch hay sống sượng đến mấy thì cũng không có gì là lạ bởi, ít nhất, đó là cách mà bộ máy giáo dục của chúng ta dạy dỗ cho bao nhiêu thế hệ, theo đó thì lòng yêu nước là một “bản sắc” của người Việt Nam.
Tôi thử Google ý niệm “bản sắc dân tộc” và tìm ra ngay một định nghĩa ngắn gọn, chắc nịch như đinh đóng cột:
“Nền văn hóa Việt Nam mang những bản sắc dân tộc đặc trưng: Yêu nước, tự cường, đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị” [4].
Bao nhiêu năm qua, chúng ta rót vào tai nhau, dạy đi dạy lại cho bao thế hệ trẻ về “bản sắc dân tộc” những điều như thế, nhưng nếu nhìn lại để đặt nó trong mối quan hệ tương liên với các dân tộc khác thì, thực tình mà nói, chúng ta chẳng khác nào hạng trẻ con, mà cũng chẳng khác lũ ếch ngồi sâu trong đáy giếng.
Nếu “yêu nước” là “bản sắc” của dân tộc Việt Nam thì hóa ra người Nga, người Pháp, người Anh, người Trung Hoa hay người Lào, người Nhật không hề yêu nước của mình?
Và nếu “tự cường” là bản sắc dân tộc thì tại sao chúng ta vẫn lẹt đẹt, thua xa những láng giềng hay những nước Á châu khác từng ngang hàng hay kém xa mình?
Mà không chỉ là lòng “yêu nước”, là tính “tự cường”, toàn bộ những yếu tố kể trên đều cần phải xem lại [5].
Đã gọi là “bản sắc” thì đó phải là những đặc điểm khiến mình khác biệt so với người khác, không phải là những yếu tố chung chung mà hầu như dân tộc nào cũng có. Để tiện, thử so sánh với “bản sắc Úc” mà giới nghiên cứu nước này đã đưa ra vào thập niên 1990, với bốn đặc điểm: Lười biếng, kỳ thị, thế tục và nam tính.
Về sự lười biếng thì, trên thực tế, người Úc không hề lười biếng, họ lao tâm lao lực ra trò. Vấn đề là sự “lười biếng” này được ghi nhận qua một mô thức kinh tế… lười biếng. Úc là một quốc gia phát triển nhưng hoạt động kinh tế, phần lớn, chỉ ở mức… đang phát triển, chỉ đào quặng mỏ lên bán cùng với các sản phẩm canh nông, chẳng khác gì mấy các quốc gia đang phát triển Á, Phi. Nếu Úc không “lười biếng” thì các quặng mỏ và sản phẩm canh nông kia phải được chế biến mà ngôn ngữ kinh tế gọi là thêm phần “giá trị gia tăng”.
Thứ hai là sự kỳ thị. Dù đang theo đuổi chính sách đa nguyên, Úc vẫn bị mang tiếng là kỳ thị do chính sách “White Australia” áp dụng từ năm 1901, theo đó chỉ nhận di dân da trắng. Dẫu chính sách này đã bị bãi bỏ từ năm 1966 nhưng người Úc vẫn ghi nhận là “ấn tượng” về sự kỳ thị vẫn còn đó nên, trong bang giao quốc tế, cần phải “ý tứ” đến yếu tố này.
Thứ ba là chủ nghĩa thế tục, secularism, thể hiện rất rõ ở các chính trị gia Úc nếu so với Mỹ. Ra ứng cử, bất cứ ứng cử viên nào ở Mỹ – từ cấp dân biểu, nghị sĩ đến tổng thống – ai cũng cố bày tỏ lòng mộ đạo, ngọt xớt dẫn chứng Thượng Đế và, khi kết thúc bài diễn văn, luôn luôn lập lại câu kinh nhật tụng “God bless America”. Nhưng các chính trị gia Úc không hề đếm xỉa đến chuyện này và, trên phương diện xã hội, những lãnh tụ tôn giáo thường bị báo chí mang ra nhạo bang, không chút nể nang!
Thứ tư là chủ nghĩa nam tính, masculinism, thể hiện qua sự tôn sùng cũng như đòi hỏi cao ở nam giới. Có thể thấy điều này trong môn thể thao bóng bầu dục, khi các cầu thủ Úc chỉ trang bị duy nhất dụng cụ bảo vệ ở bộ răng, khác với các các cầu thủ bóng bầu dục Mỹ bảo vệ hầu như toàn thân. Hay thói tục trọng thể thao: Dàn nhạc giao hưởng trẻ của Úc trình diễn tại Âu châu đạt thành tích vang dội nhưng truyền thông hầu như chẳng để ý, trong khi đó một cầu thủ quần vợt, một tay bơi đạt giải nào đó là được tán dương tận mây xanh.
Những điều này được phân tích trong môn học mang tính địa lý – chính trị tại các đại học Úc vào thập niên 1990, chuyên về quan hệ giữa Úc và Á châu. Đó là thời điểm mà Úc đang cố gắng hội nhập vào Á châu và “bản sắc” này không chỉ là nỗ lực tự phán, mà còn được đúc kết từ cảm nhận của các láng giềng Á châu về Úc: Muốn hội nhập vào Á châu thì nước Úc phải hiểu rõ Á châu nhìn mình và hiểu về mình như thế nào.
Đó, có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta phải áp dụng trong nỗ lực gọi là “Tiến ra biển lớn”. Nếu những thế hệ đi trước như Nguyễn Văn Vĩnh từng “xét tật mình” như một cách tự phán thì thế hệ hiện tại phải làm hơn thế nữa: Ngoài việc tự phán còn phải lắng nghe và ghi nhận những phán xét chẳng mấy hay ho và, thậm chí, cực kỳ tồi tệ của người khác về mình.
Trong Chuyện Tử Tế, đạo diễn Trần Văn Thủy đã dựng hai cảnh trái ngược. Một là cảnh một lớp học rách nát tại Việt Nam và những học trò suy dinh dưỡng quàng khăn đỏ trên cổ, trên bục cô giáo giảng bài về niềm tự hào của một đất nước anh hùng, rừng vàng biển bạc v.v… Một là cảnh một lớp học hiện đại tại Nhật nhưng bài học lại là sự bất hạnh của một đất nước nghèo tài nguyên lại bị thua trận trong chiến tranh: Tương lai của đất nước hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực học hành của các em.
Để “tự cường” thì cần phải dạy sao cho thế hệ trẻ biết nhục về những cái yếu kém của mình, thay vì ê a những bài học vinh quang và tự hào, mà nói theo Vũ Trọng Phụng, là “Biết rồi, khổ quá, nói mãi”. Hãy dạy để học trò biết đau trước những tấm biển “Cấm vào đây ăn trộm” bằng tiếng Việt tại các siêu thị ở Thái Lan, ở Nhật, ở Úc hay lời tuyên bố lạnh tanh “Không được đến đây làm đĩ” tại Singapore [6].
Đừng nên dạy chúng tự sướng, đẩy chúng lên những đám mây xanh tự hào, huênh hoang rằng, chỉ có người Việt mới yêu nước như thế, hay yêu nước nhất nhì thế giới.
Mà không chỉ dạy cho thế hệ trẻ. Phải nhồi vào tai, phải nhét vào đầu của người lớn, cả những kẻ đầu đã hai thứ tóc, rằng nếu thực sự yêu nước thì đừng có làm nhục đất nước mình, đừng có biến đất nước mình thành trò cười của nhân loại.
__________
Chú thích:
https://www.youtube.com/watch?v=eAYsm6xq2rI2. “Bệnh nhược tiểu, thói hủ nho và thủ dâm chính trị”: https://vanviet.info/van-de-hom-nay/benh-nhuoc-tieu-thi-hu-nho-v-thu-dm-chnh-tri/
3. “I am Czech. ‘This was not my choice, it was fate. I’ve lived my whole life in this country. This is my language, this is my home. I live here like everyone else. I don’t feel myself to be patriotic, because I don’t feel that to be Czech is to be something more than French, or English, or European, or anybody else. ‘God – I don’t know why – wanted me to be a Czech. It was not my choice. But I accept it, and I try to do something for my country because I live here.”
4. “Những giá trị bền vững của văn hóa Việt Nam”: https://baodongnai.com.vn/vanhoa/202001/ban-sac-van-hoa-nam-bo-nhung-gia-tri-ben-vung-cua-van-hoa-viet-nam-2984578/
5. Thí dụ như “đoàn kết”, ngay trong truyền thuyết “trăm trứng trăm con” đã thấy sự chia rẽ rồi: Sau khi đã có một trăm mặt con, Lạc Long Quân phải thú nhận với Âu Cơ là không thể tiếp tục ăn ở, phải cắt đôi gia đình, năm mươi về núi, năm mươi về xuôi. Và càng phải xem lại những “bản sắc” như “lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị”.
Lấy thí dụ yếu tố “ứng xử tinh tế và giản dị”. “Tinh tế” là ý niệm phải đặc biệt chú ý trong quan hệ ngoại giao nhưng cứ xem cách bà Nguyễn Thị Kim Ngân, khi còn là chủ tịch quốc hội, “tinh tế” như thế nào khi cùng cho cá ăn với nguyên Tổng thống Mỹ Barrack Obama, khiến ông này, một người rất tinh tế, cũng phải cũng phải bộc lộ ra ánh mắt ngỡ ngàng!
Hay cảnh các quan chức chúng ta tán gẫu như thể là đang uống trà đá vỉa hè, giữa lúc đang chờ làm việc chính thức với Bộ Ngoại giao Mỹ, với câu chốt khét tiếng “Rõ ràng, sòng phẳng. Mẹ nó, có sợ gì đâu!”
Về giản dị thì từ “văn hóa cổng chào” cho đến “lễ” nhậm chức, có thể nói là người Việt Nam hiện tại tỏ ra rườm rà và lãng phí vào hạng nhất nhì thế giới. Tại Úc, mỗi lần thay đổi nội các, chính phủ chỉ đơn giản đến Dinh Tổng Toàn Quyền làm lễ tuyên thệ nhưng tại Việt Nam chỉ quyết định bổ nhiệm một quan chức cấp tỉnh thôi cũng rềnh rang ban bệ từ trung ương về, treo băng rôn, cờ, hoa v.v… lãng phí bao nhiêu thời gian, công sức, tiền bạc.
6. Khoảng mười năm trước, một tiệm sách tại một trung tâm thương mại ở Sydney treo bảng bằng tiếng Việt: “Ăn trộm là tội phạm, sẽ bị truy tố theo luật hình sự”. Tôi thắc mắc thì người quản lý, một phụ nữ rất cởi mở, giải thích là thời gian qua tiệm bị mất khá nhiều sách và đã theo dõi, sau đó đã bắt quả tang một số sinh viên Việt Nam “không có quốc tịch Úc” trộm sách, đã giao cho cảnh sát. Trung bình mỗi học kỳ một sinh viên tại Úc theo học bốn môn và ít nhất mỗi môn phải mua một cuốn sách tham khảo chính, có môn phải mua đến ba cuốn, mỗi cuốn như vậy, vào thời điểm đó, có giá từ $70 đến $120.
September 14, 2025
Trần Dần trong cái nhìn của các nhà văn miền Nam Đặng Trần Huân và Hoàng Hải Thủy
Về nhà văn Trần Dần trên blog này ngày 19/11/ 2023 tôi từng đưa lại bài "Thủ lĩnh trong bóng tối"
của Phạm Thị Hoài, https://vuongtrinhan.blogspot.com/202...
bài này vốn lấy từ nguồn http://www.talawas.org/talaDB/showFil... --
Trong việc đánh giá lại văn học nền văn học phát xuất từ Việt Bắc kháng chiến rồi phát triển lên ở Hà Nội đến 4-1975, tôi vẫn thấy trước sau rất nên tham khảo cái nhìn của các tác giả miền Nam (cả các nhà văn và giới nghiên cứu), bao gồm cả sự biến chuyển của cái nhìn này trong thời gian.
Lấy một ví dụ như hiện tượng Nhân Văn Giai Phẩm, các nhà văn Hà Nội này đã được các đồng nghiệp bên kia chiến tuyến nhìn nhận như thế nào.
Vối mong mỏi ấy, tôi giới thiệu dưới đây một bài viết thuộc loại này bài của nhà văn Đặng Trần Huân nhân quyền Trần Dần nhớ và ghi in năm 2001
http://www.daichung.com/81/09_lan_gio...
DI CẢO CỦA TRẦN DẦN
Một nhà văn nổi tiếng khi chết đi thường còn những tác phẩm trong dạng bản thảo chưa kịp in mà ta gọi là di cảo. Cũng có những di cảo chưa phải là tác phẩm mà chỉ là những ghi chép được in thành sách. Như trường hợp Nhật Ký của Anne Frank hay Notes (tạp ghi) của nhà văn Pháp Albert Camus.
Ở hải ngoại, gần đây thân nhân nhà văn Trần Dần giao cho nhà TD Mémoire ở Ba Lê in những ghi chép lung tung của ông sau khi ông chết với cái tên sách là Ghi 1954 - 1960. Đó là một phần thời gian mà Trần Dần bị trừng trị vì liên quan tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
Vì là những ghi chép không dấu diếm và cũng không ngờ có ngày được in nguyên văn nên Trần Dần kể thực về những điểm xấu liên quan tới những nhà văn bạn hữu của ông. Như Thanh Châu là một người bất mãn, già tuổi nhưng không già tài: Anh ta luôn luôn thèm thuồng ti tiện, thèm ăn, thèm uống, thèm danh vị. Một tuần lễ mà anh không được ai mời đi ăn, có tí thịt vào mồm, thì tuần ấy vợ con mất nhờ! (tr. 249). Nhà thơ Quang Dũng là: “tiếng than của sự tàn lụi, giọt lệ của quá khứ, tiếng khóc của những chế độ đã qua”(251). Hoàng Cầm, người mà có thời cộng sản đã ca tụng là nhà thơ đuổi giặc thì được Trần Dần mô tả là một người hèn nhát, khi đi học tập về vụ Nhân Văn Giai Phẩm đã tố bạn bè để lấy lòng đảng, tố Văn Cao và khi Văn Cao tới nhà hỏi lại thì Hoàng Cầm lạy lục tạ tội (264, 265). Tháng 5. 1958 Hoàng Cầm đưa vợ chính thất là cô Xuyến ra tòa xin ly dị nhưng tòa không chấp thuận nên “H Cầm ra về như một cái tã (273). Nhạc sĩ Tử Phác tự dùng thuốc để cung cấp khoái lạc, được Văn Cao tặng cho biệt danh là anh Ba Vòi.(327)
Còn chính Trần Dần thì nói gì về mình trong những dòng ghi riêng tư đối với những ngày tù cải tạo?
Bùi Ngọc Tấn trong Chuyện Kể Năm 2000 chỉ mới đi tù có gần năm năm mà khi ra tù đã bị ám ảnh khủng khiếp, đi đâu cũng tưởng nhà tù, gặp ai cũng tưởng bạn tù. Trần Dần đi lao động cải tạo ở nông trường Chí Linh chưa tới nửa năm. Mặc dầu đường lối của đảng của ông tuyên truyền lao động là vinh quang mà mới phải vào vườn mía cuốc hai bên gốc mía mà Trần Dần đã thấy đau khổ và kể:
Vào bãi mía, như vào một chiến trường đặc biệt, có muôn lưỡi gươm cài tứ tung (tr 347)
Lại mía. Bắt rệp xong, đi lột lá.
Cái rẻ giết rệp, mủ dầy cộp, tanh ngheo ngheo. . . Tôi có cảm giác, đây là một bác sĩ, nặn mủ cho hàng nghìn người bị lở nhọt, mà chỉ có mỗi một cái giẻ!. . . Cứ hết mụn người này sang người khác. Kinh tởm. (349)
. . . . .
Lá mía. Công tác này kinh quá. Cứ một ngày bóc lá mía, là vài ngày xót và nhức tay . . .(349)
Hai tác giả này có biết có những người chiến sĩ quốc gia sau 30. 4. 75 bị cộng sản bắt tù tới 17 năm giòng giã, ăn không đủ no, ngủ chung với rệp, lao động khổ sai trên rừng đầy vắt, ruộng lúc nhúc đỉa, trong những ao phân lúc nhúc dòi như thế nào không ?
Bùi Ngọc Tấn sau khi ra tù vẫn không làm gì cho cộng sản, khác với Trần Dần dù đã từng làm những bài thơ tố cộng nhưng chỉ mới nếm thử ít mùi lao động đã sẵn sàng đầu hàng đảng ngay.
Để lấy lòng đảng cộng sản, Trần Dần không coi vụ án Nhân Văn Giai Phẩm là một vụ đàn áp mà chỉ là việc đấu tranh văn nghệ (262) và ca tụng chuyện đàn áp đó. Miền Nam gọi vụ đó là đàn áp thì Trần Dần bào chữa:
Ngược lại, ở Hà Nội nên dùng chữ cứu vớt thì đúng hơn. Bàn tay khoan dung của Đảng đã kéo những kẻ lạc đường ra khỏi cái tư tưởng độc địa của chủ nghĩa xét lại! Sao lại vu cho là khủng bố? (264).
Ngoài những dòng nhật ký ngắn cho biết diễn tiến và suy nghĩ của Trần Dần về vụ Nhân Văn Giai Phẩm và về những đồng nghiệp văn chương của ông, là những tài liệu không còn bí mật gì mấy mà chúng ta đã biết như bài chê thơ văn Tố Hữu, thơ Nhất Định Thắng, Hãy Đi Mãi, kịch thơ Cổng Tỉnh . . . và phần phụ lục gồm những văn kiện chính thức về vụ Nhân Văn Giai Phẩm , những bài viết về Trần Dần và tang lễ ông.
Phần nhật ký của Trần Dần trong cuốn Ghi 1954-1960 do nhà văn Phạm Thị Hoài chép lại từ nhật ký viết tay của ông đúng theo nguyên văn lối viết của tác giả mà chỉ sửa lại chính tả cho thống nhất. Cuốn sách mang tên Ghi 1954 - 1960 nhưng trong thủ bút ở trang 366 , Trần Dần viết là Ghi Vặt có lẽ đúng hơn vì có nhiều ngày tác giả chỉ ghi có hai, ba dòng, thậm chí có lúc chỉ có bốn hay năm chữ (134, 56, 108).
Phần biên niên Trần Dần: cuộc đời, tác phẩm, thời đại và những chú thích hẳn phải do Phạm Thị Hoài trách nhiệm. Là một nhà văn trưởng thành dưới chế độ cộng sản, bị bưng bít khi sống dưới chế độ đó nhiều năm, chỉ vượt thoát sang quốc gia tự do sau 1975 thôi nên bà còn mắc những sai lầm khi nhận xét về Việt Nam Cộng Hòa là điều dễ hiểu. Chẳng hạn bà vẫn tin vào sự vu khống của Việt cộng khi nói rằng người quốc gia đầu độc chết trên một ngàn tù cộng ở Phú Lợi (Bình Dương) năm 1958 (369) hay đảo lộn diễn tiến biên niên khi để ngày chết của Nhất Linh sau ngày binh biến 1. 11. 1963 (23) v . v . . .
Tuy nhiên, nói tổng quát, cuốn Ghi 1954-1960 là một cuốn sách cho ta những tài liệu bổ ích để hiểu thêm về những năm đầu khi cộng sản cai trị miền Bắc Việt Nam sau hiệp định Geneva 1954, với những ghi chép thật lòng của một nhà văn nay đã quá cố.
· Ghi 1954 - 1960 dày 470 trang, giá 18 mỹ kim. Nxb Văn Nghệ, Cali tổng phát hành.
---------------------------------
Còn đây là một bài viết tổng hợp về Trần Dần của Hoàng Hải Thủy:
https://hoanghaithuy.wordpress.com/20...

TRẦN DẦN NOBEL --
Bài đăng trên WEB, phát đi từ Hà Nội:
Trong buổi tọa đàm về cuốn tiểu thuyết “Những ngã tư vànhững ngọn đèn” của Trần Dần tổ chức ngày 16 tháng 6 năm 2011 tạiTrung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội, nhà thơ, dịch giả Dương Tường đã tâm sự:
“Ở Việt Nam, nếu có một người xứng đáng được nhận giải Nobel thìngười đó là Trần Dần.
“Trần Dần là một người khổng lồ, không dưới 30 tập thơ, ba tiểuthuyết, không kể những bản thảo bị mối mọt hay thất lạc … Còn phải nhiều nămnữa người ta mới đánh giá được kho tàng văn học do Trần Dần để lại”.
Dương Tường từng khẳng định Trần Dần là nhà cách tân thơ số mộtcủa Việt Nam.
Ông giải thich:
“Suốt một thời gian dài, thơ Việt Nam nằm trong quỹ đạo của ThơMới. Người đầu tiên tạo nên một vết cắt, đưa thơ Việt Nam ra khỏi quỹ đạo đó lànhà thơ Nguyễn Ðình Thi. Nhưng Nguyễn Ðình Thi không đi hết con đường của mình.Còn Trần Dần, từ những ảnh hưởng của Maiakovski, ông chuyển sang viết Jờ Joạcx,Mùa sạch… với những cuộc tìm kiếm không ngừng đến cái mới. Thơ Trần Dần đầychuyển động, không bao giờ lặp lại chính mình, nhưng vẫn giữ nguyên cái cốtcách Trần Dần”.
Trần Dần từng kêu gọi “Phải chôn Thơ Mới” …”phải viết khác đi,phải cách tân, phải quên những thành tựu của tiền chiến để sáng tạo nên nhữngthành tựu mới, phải cướp được độc giả của tiền chiến”…
“Tệ” hơn, ông còn đòi “chôn” cả Nguyễn Du:
“Với tôi, Du (Nguyễn Du), Hương (Hồ Xuân Hương), Khiêm (NguyễnBỉnh Khiêm), Quát (Cao Bá Quát) hay Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương là thầy. Nhưnghọc trò phải “chôn” thầy. Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ.Con chữ nó làm nghĩa.
“Mai sau dù có bao giờ” là con chữ “Chữ tài liền với chữ tai mộtvần” là đặt nghĩa”.
Bởi vì, ông tuyên bố:
“Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển” (Sổ bụi 1979).
Ông đòi hỏi nhà văn phải là:
“Kẻ viết đạp đổ chân trời? Xổng xích các chân mây?” (Sổ bụi –1985).
--
Bộ sách Trần Dần ghi 1954-1960 gồm ba quyển: quyển một là nhữngsuy nghĩ về sáng tạo, quyển hai chụp lại thời kỳ đấu tố với những hình ảnhkhủng khiếp kinh hoàng, quyển ba viết về cuộc sống con người trong những năm bịcầm tù.
Trong quyển Một, có những dòng sau:
– Người Sáng tạo là đại biểu cho Tương lai. Nên hắn mâu thuẫnrất mạnh với Hiện tại.
– Người Sáng tạo chỉ làm chủ được ở Tương lai. Còn ở Hiện tại,hắn phải chịu như là thua, nhường cho những kẻ tầm thường khác làm chủ.
– Nếu có chịu được búa rìu của thành kiến mới có thể làm ngườisáng tạo được. Phải có dạ lim trí sắt.
– Phải có gan đứng lên trên dư luận, chửi mắng, mưa bão. Phảibiết đạp mưa xéo gió. Phải phá vỡ cái luân-lý-hiện-hành, những nguyên tắc tụclệ hiện nay đang làm chủ. Ðó là bỏ cái ba lô của hiện tại, mới có thể xốc tớitương lai.
– Số phận người sáng tạo bao giờ cũng phải chịu hiểu lầm, chịunhững sấm sét của cái cũ nó phản công. Vì người sáng tạo là kẻ thù không đợitrời chung của cái cũ. Mà cái cũ nó không chịu chết ngay, nó nhiều kế độc, hạingầm và hại ra mặt.
Ðiều kiện tiên quyết để sáng tạo: Tự do
(Ngưng Lời Dương Tường kể về Trần Dần)
o O o
CTHÐ (Công tử Hà Đông):
TRẦN DẦN.GHI được xuất bản ở Parisnăm 2001, sau khi Trần Dần qua đời ở Hà Nội. Ở Kỳ Hoa Ðất Trích, tôi đọc GHI,nhớ lại chuyện xưa tôi thấy đau lòng.
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, nước còn trau mặt với tangthương.
Trong GHI, ngoài việc lên tiếng đầu hàng, hối lỗi, nhận tội, tựchửi rủa mình và mạt sát các bạn văn nghệ sĩ cùng nhóm, hết lời ca tụng Ðảng,Trần Dần viết nhiều câu khinh bỉ “bọn miền Nam“, tức những người Quốc Gia ViệtNam Cộng Hòa, những người đã lên tiếng bảo vệ những văn nghệ sĩ Hà Nội trongnhóm gọi là Nhân Văn Giai Phẩm. Tôi sẽ kể lại những lời vô ơn, đểu giả, ngungốc ấy đúng như lời Trần Dần ghi trong GHI.
Tôi không thấy bực bội khi đọc trong GHI những lời Trần Dần viếtvề Quốc Gia VNCH của tôi, tôi chỉ thấy thất vọng, chán chường, buồn nản, tôithương hại những văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm — NVGP — nhất là baông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt, ba người từng được coi là “Những Kiện TướngNhân Văn Giai Phẩm.”
Tôi thương hại họ và tôi thương hại tôi: trong nhiều năm tôitưởng nhóm NVGP — rõ hơn là ba ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt — là những ngườiđàng hoàng, tư cách, can đảm — những “ Kẻ sĩ Bắc Hà” — nhữngkẻ sĩ dám công khai chống lại Ðảng Cộng Sản, dám lý luận đả kích chính sáchlãnh đạo văn nghệ của Ðảng, dám chấp nhận những hậu quả tai hại, nguy hiểm củaviệc họ làm!
GHI cho tôi thấy những văn nghệ sĩ NVGP Nhân Văn Giai Phẩm mà tôi cảm phục trong mộtthời gian dài đến 40 năm đã đầu hàng Ðảng CS, đúng ra là đầu hàng Tố Hữu.
Không phải là tất cả, nămxưa ấy — những năm 1957, 1958, 1959, 1960 ở Hà Nội — có những văn nghệ sĩbị đàn áp, bị tù đày, nhưng không đầu hàng Ðảng, như Phan Khôi, Trương Tửu, HữuLoan, Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Trần Đức Thảo, nhưng ba người nổi tiếng nhấttrong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đã quì gối, rậpđầu, uốn lưỡi nhận tội trước cái gọi là Ðảng, trước bọn được gọi hết sức mơ hồ,mờ ám là “lãnh đạo“, rõ hơn là trước Tố Hữu.
Năm nay, 2008, tác phẩm TRẦN DẦN. THƠ đượcxuất bản ở trong nước — Nhà Xuất Bản Ðà Nẵng — được đưa sang Hoa Kỳ bán với giá20 Mỹ kim ở Cali, tôi viết bài “Ðọc TRẦN DẦN. THƠ.”
Tôi trích đăng ở đây vàiđoạn trong bài tôi viết năm 2001 về quyển GHI của Trần Dần.
***
Ðây là lời Trần Dần:
GHI.Trần Dần. Trg 226. Trích:
…Từ đầu năm (và cả trước nữa) tôi đã nhiều lần nói với nhữngLÐạt, ÐđHưng, cả TDuy nữa, về những khuyết điểm, về những cái tội của NVGP, vàcủa bản thân tôi.
Tôi đã đến với đồng chí THữu, nói như tuyên bố về việc học chínhsách với thực tế. Thế tại sao đồng chí THữu là người quản lý việc học của Ðảng,lại không mở cửa cho một người đã đến thành tâm gõ cửa?
Ôi chao!
La porte m’est-elle fermée à jamais?
GHI. Trg 240, 241. Trích:
Tôi là cái gì?
Trước Cách Mạng, tôi là một thứ hổn lốn phản động của những tưtưởng tư sản, địa chủ: hưởng lạc đến đồi trụy, hám danh to đến bệnh “vĩ đạicuồng”, vô chính phủ đến phá phách mọi trật tự, thoát ly đến rơi vào sinh hoạtsa đọa, và đi vào các trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật, tượng trưng, lậpthể, siêu thực… và vào triết học ru ngủ tối phản động của Bergson.
Trong Kháng Chiến, con người phản động đó bị trấn áp, hoàn cảnhchiến tranh và chân lý vô sản đè cổ nó xuống, nhưng việc nạo rửa mới chỉ đượcmột phần nào.
Trở về hòa bình, nhân cơ hội cách mạng gặp khó khăn khắp thếgiới và trong nước, lại gặp hoàn cảnh một thành phố “Mỹ hóa” như Hà Nội, tứcthì con người phản động cũ của tôi nó lộn lại. Nó không hiện nguyên hình nhưcũ, mà khoác áo mới, những “chống công thức”, “đi tìm cái mới”, thực chất đóchỉ là cái vỏ che đậy cho cái ruột thối của chủ nghĩa xét lại và tư tưởngtrotskiste.
Con người phản cách mạng như thế phát triển với tốc độ “tử vìđạo”, nó phá phách khi hung hãn, khi tinh vi mọi cản trở, tức là mọi nguyên tắcvà lý luận cách mạng, nó húc đầu bướng bỉnh và tàn nhẫn vào quy luật phát triểnkhách quan của lịch sử. Nó đấu tranh ở bộ đội, ra Giai Phẩm Mùa Xuân, làm thơphá hoại, đứng cùng hàng ngũ bọn NVGP, bắn lại cách mạng, bắn lại Ðảng, trong khiÐảng vẫn dang lớn hai cánh tay kêu gọi nó lộn về, ngực Ðảng hở, vô tình, bịviên đạn nhẫn tâm nó bắn đến bị thương.
Không thể đếm hết được những viên đạn ròng rã trong ba năm quatôi đã bắn vào Ðảng, khi thẳng mặt, khi bắn sau lưng, lợi dụng tình thương củaÐảng mà phản bội. Cứ thế, đối Ðảng, đối nhân dân, đối bạn bè, đối gia đình, đốivăn học, tôi đã gây biết bao tình tội, mà suốt một đời còn lại, làm việc và ănnăn hết lòng, cũng khó mà xóa đi cho hết.
Tôi đã tự lừa dối là người có óc suy nghĩ độc lập. Song sự thựcchứng tỏ tôi chỉ là một con rối mà những đường dây tư tưởng thù nghịch nó đãgiật cho múa may tùy thích.
Tôi đã tự lừa dối tôi là một martyr của Ðảng quan liêu, song sựthực chứng tỏ đối Ðảng, đối nhân dân tôi là một kẻ tội đồ mà dân ta, Ðảng tacòn chưa trừng trị.
Tôi đã tự lừa dối tôi là tôi đi một còn đường cao quý, con đườngchịu tội cho loài người (chemin de calvaire) Song sự thực chứng tỏ con đườngtôi đi chỉ là con đường phản bội, con đường phá hoại, nhơ bẩn và tàn nhẫn.
Tôi đã tự lừa dối là tôi tử vì đạo vì mục đích đi tìm cái mớicho xã hội, cho văn học, cho con người. Song sự thực chứng tỏ tôi đã là đứa taysai muốn chết cho bọn tư sản phản động, cho chủ nghĩa xét lại, cho tư tưởngtrotskiste, và cho bọn đế quốc chúng đứng trên cao hết, chăng ra một bức mạngnhện những tư tưởng hiểm nghèo và độc địa.
o O o
Ngày 17-5-1958, Trần Dần viết về Quốc Gia VNCH.
GHI,trang 262. Trích:
Miền Nam cắn lại trả thù cái đòn “công hàm” 7/3 của ta, bằngnhiều cách:
– ra tuyên cáo chĩa lại mũi nhọn vào LXô và Ðảng
– phản tuyên truyền về việc đấu tranh Nhân Văn Giai Phẩm.
Trần Chánh Thành bộ trưởng bộ TTX Thanh Niên của Diệm, đầu sỏbáo Dân Chúng,-- hắn làm một chiến dịch xuyên tạc việc đấu tranh văn nghệ, tungtin 17 văn nghệ sĩ “dũng cảm” bị “Việt Cộng” bắt, in lại Nhân Văn Giai Phẩm,khuyên người ta nên đọc đó mà xem, “khỏi còn có ảo tưởng gì về sự tự do củaViệt Cộng”!
Tóm lại, luận điệu chúng rất là Mỹ, nghĩa là vu cáo đến cynique,lại bịa đặt đến ngu si, gian ngoan đến lộ liễu.
Tôi bị cái nhục chúng nhắc đến trong số văn nghệ sĩ “dũng cảm”kia; tất cả số văn nghệ sĩ đó đều đã thấy rõ tội lỗi của mình trong cuộc đấutranh tư tưởng vừa qua. Tất nhiên mọi cuộc đấu tranh tư tưởng đều có cái gay gocần thiết của nó, nhưng đây là cái gay go của sự cứu vớt, cái gay go của tìnhyêu của Ðảng, phải kiên quyết cứu số văn nghệ sĩ đáng giận kia ra khỏi cái cũicủa chủ nghĩa xét lại.
Ðâu là chuyện bắt bớ, cầmtù? Có chuyện ấy, nhưng lại ở Sàigòn, hàng chục văn nghệ sĩ bị đưa ra tòa, chỉvì tội tự do ngôn luận chính đáng, họ đã nói tới vấn đề thống nhất, có vậythôi! Ở Hà Nội này, người ta lại khuyến khích việc đòi thống nhất, tha hồ thảsức mà nói! Ở đâu, có tự do yêu nước, tự do bàn đến số mệnh của Tổ Quốc, SàiGòn hay Hà Nội? Ở đâu, những văn nghệ sĩ chỉ vì thi hành quyền công dân củamình mà lại bị tù hàng loạt?
Sự thực, ở Hà Nội, ta có bắt 3 tên NhÐang, MÐức, ThAn. Nhưng saolại gọi họ là văn nghệ sĩ? NhÐang là một nhạc sĩ chăng? Hay một thi sĩ, một họasĩ? Tuyệt nhiên không phải, cả đến gọi là phê bình hay nghiên cứu văn học cũngkhông phải.
NhÐang chỉ là một thủ lĩnh của chủ nghĩa xét lại, nhè những sơhở trong văn nghệ nhẩy vào mà phá. MÐức là một tên phá hoại làm nghề xuất bản,hắn vừa có cái căm thù chế độ miền Bắc, vừa có cái đầu óc buôn tên người, coivăn nghệ sĩ là những món hàng, nhìn văn chương thành ra những tệp giấy bạc lờilãi, đánh giá sự hay dở của tác phẩm duy nhất trên tiêu chuẩn bán chạy haykhông, quan điểm “best seller” trong văn nghệ!
Còn Thụy An, đó quả là một mụ có viết lách tí tỉnh. Song mụ bịbắt không phải vì tội “cầm bút”, mà là vì tội làm gián điệp.
Vậy thì, ai là văn nghệ sĩ bị bắt ở Hà Nội?
Ðâu là chuyện khủng bố? Nếu nói khủng bố thì ở miền Bắc nàyngười ta không quen nói chuyện với văn nghệ sĩ bằng quả đấm hay lưỡi gươm luậtpháp! Có cần nhắc lại không? Năm ngoái Tổng Thống đã nhờ đến du côn đem đá đếnnói chuyện với báo Tiến Thủ như thế nào? Năm nay, mấy chục nhà báo ra trướcvành móng ngựa của Tòa “bất công lý” Sài gòn?
Ngược lại, ở Hà Nội, nên dùng chữ cứu vớt thì đúng hơn. Bàn taykhoan dung của Ðảng đã kéo những kẻ lạc đường ra khỏi cái tư tưởng độc địa củachủ nghĩa xét lại! Sao lại gọi là khủng bố?
Un grand mensonge cousu de fil blanc!
GHI.Trg 301. Trích:
Quán đưa tôi xem một bản tin miền Nam. Ðâu như do một anh bạnnào bên Văn Hóa cho mượn.
Bản tin nói xấu tình hình văn học miền Bắc. Luận điệu mốc rồi,vẫn chỉ vu là: miền Bắc thiếu tự do! Tôi bị cité, cùng với HCầm, Phan Khôi,Thụy An (!) Ngồi với cái cỗ ấy mới hôi chứ!
o O o
Tôi – CTHÐ – mời quí vị xét tư cách con người Trần Dần quanhững lời anh viết trong Ghi — như những lời được trích trên đây — đáng kể nhấtlà việc anh làm với văn nghệ sĩ Phùng Cung năm xưa ở Hà Nội, như kể dưới đây:
Phùng Hà Phủ, người con trai của Nhà Văn Phùng Cung, kể tronglời giới thiệu tác phẩm “PHÙNG CUNG. Truyện và Thơ.” Nhà Văn Nghệxuất bản ở Hoa Kỳ năm 2003, sau ngày Nhà Văn Phùng Cung qua đời.
Phùng Hà Phủ. “PHÙNG CUNG. Truyện và Thơ”
Nhớ lại theo lời bố tôi kể “khi xảy ra chuyện”, buổi sáng hôm đóbố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Ðến nơi thấy mọi người xung quanh đềucó ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả nhữngbạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt.
Ngay sau đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thựcchất gần như một buổi đấu tố thời “cải cách” của Liên Hiệp các Hội Văn Học NghệThuật (gồm cả đại diện bên Văn Nghệ Quân Ðội).
Chủ trì cuộc đấu tố làcác ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Ðình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh… Cảm tưởng đauxót và ngỡ ngàng nhất của bố tôi là những ông bạn thường ngày chơi thân với bốtôi đều tham gia vào cuộc “đấu tố”.
Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên mở đầu cuộc “tố” đểtiếp đó hai ông Lê Ðạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị “tố”là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình, lôi kéo người kháccùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác – Tất cảnội dung đều tập trung vào việc đả kích lãnh tụ và Ðảng Cộng sản như: Dạ ký,Chiếc mũ lông, Quản thổi, Kép Nghế… Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gialàm báo Nhân Văn nhưng theo mẹ tôi thì còn nhiều lý do khác nữa.
( .. .. .. )
Từ ngày ra tù, bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quanhệ với ai ngay cả với các bạn văn quen biết cũ. Nhiều người trực tiếp “tố” bốtôi ngày xưa thấy hối hận về việc làm của họ nên họ tìm đến xin lỗi bố tôi.
Trong dịp bố tôi và bác Phùng Quán đứng ra tổ chức Lễ Mừng SốngDai cho ông Nguyễn Hữu Ðang — (Ông Ðang là cán bộ văn nghệ, ông bị bắt tù 18năm. Lúc này ông đã 81 tuổi.) — Các ông văn nghệ đến dự Lễ Mừng rất đông, ôngLê Ðạt cũng đến, ông đứng bên bố tôi và nói: “Cung ơi, dù có thế nào tao vẫn làbạn của mày, tao có lỗi với mày. Có gì, mày cứ gọi tao ra mà mắng.” Ông HoàngCầm cũng đến gặp bố tôi, ngỏ ý muốn nối lại tình thân với bố tôi như xưa.
o O o
CTHÐ : Qua lời kể của Phùng Hà Phủ, tôi thấy bộ mặt hèn,đểu của ba “Kiện tướng Nhân Văn Giai Phẩm.” Tôi muốn viết thêm “không biếtnhục” nhưng tôi không viết, vì tôi thấy hai tiếng “hèn, đểu” là đã đủ để gọi bangười đó. Những người hèn đểu thường không biết nhục.
Người ta có thể hèn mà không đểu, có thể đểu mà không hèn, ba“Kiện tướng NVGP” Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm vừa hèn, vừa đểu. Người thường cóthể Hèn và Ðểu, nhưng Kẻ Sĩ thì không thể.
Nếu không có Phùng Hà Phủ kể chuyện, gần như không có người Việtnào biết về « Phiên Tòa Ô Nhục NVGP » năm xưa do Ba Kiện TướngNVGP Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm muối mặt kể tội Văn sĩ Phùng Cung. Trong baonhiêu năm, ba Kiện Tướng không ông nào dám nhắc đến Phiên Toà này. Bao nhiêungười phỏng vấn ba Kiện Tướng cũng không ai hỏi ba ông về phiên toà. Tôi chắcvì Phiên Toà này, ba ông Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm không ông nào dám viết HồiKý về Nhân Văn Giai Phẩm.
Qua mấy chuyện tôi kể trên đây, xin quí vị định luận về tư cách,về con người của Trần Dần.
Nay mời quí vị xét về tài năng của Trần Dần :
Năm 1956 Trần Dần làm bài thơ “Nhất định thắng” bắtchước kiểu thơ lập dị — cà chớn của Thi sĩ Nga Mayakosky. Ý thơ không có gì lạ,nó lạ ở cách trình bầy lời thơ trên giấy khấp khểnh theo kiểu bậc thang, như :
…..Tôi bước ra
……….không thấy phố
……………không thấy nhà
Thơ kiểu này là “Thơ xuống thang”. Những văn nghệ sĩ BắcCộng Xã Hội Chủ Nghĩa chuyên ca tụng Liên Xô Vĩ Ðại và bắt chước các đàn anhNga, Tầu, nhưng chỉ có một mình Trần Dần là bắt chước kiểu Thơ KhấpKhểnh của Mayakosky.
Ðây là Thơ Trần Dần “sáng tác” sau năm 1960:
jờ joạcx.
Trích:
Chính tả như một phương tiện nghệ thuật: Talawas xin giới thiệumột trích đoạn: “jờ joạcx“, một trong những tác phẩm then chốt của sự nghiệpthơ Trần Dần, dicảo, chưa xuất bản.
jờ joạcx
thơ-tiểu thuyết một bè đệm
joạc jờ jêrô… vòng tròn
thằng truồng bị vây trong vòng tròn.
tôi không hiểu tôi bò 2 chân trên sẹojoạc jờ nào?
sao cứ thun thút những sẹo mưa jọc jài ỗng ễnh bầu mưa?
chứ tôi đâu phải thằng quíc-ss? mà tôi vẫn
bị ngửa thì jờ ướt mưa jòng mùa jọc nịt joạc
vườn jịch ngực joạt đùi jầm mùi jũi lòng.
tôi biết jành jạch sử kí cả những luồng phùn mọc lọc người đi.
hôm nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịc mịch ngày tôi đi
song song cơn mưa to juỳnh juỵch jạng đông
tôi gặp một con nữ vận động viên ướt jượt toàn thân
chạy joạch vòng mưa jòng jòng
1 – 9 – 6 – 3 min mét nữ.
jờ jạchx nở jòn jọtx
chính ja tôi thíc cái yếm
nín cái nịt thịt của các kilômét đùi joạcx.
Tôi gương trong jập mùng đùi sẹo nữ.
tôi là một cái sẹo mòng mọc khoái jữa các
sẹo bàn ghế tủ nam nữ đồ đạcx.
o O o
Mời quí vị đọc một lời tán tụng Nhà Thơ Lớn Xã Hội Chủ NghĩaTrần Dần Jờ Jọaxc.
Nhà văn Phạm thị Hoài viết:
“Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà hammuốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượtqua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoàimình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lạilàm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. Từ 1958 đến nayTrần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bứcvới những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lạiồn ào dấy lên bên ngoài. Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ nhưTrần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới.
“Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúckết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tối thiểutôi phải có một văn cách.”
Ngưng trích Lời Bà Phạm Thị Hoài
Chẳng đặng đừng, tôi — CTHÐ — phải viết đôi dòng:
“Bà văn sĩ nhiều lời quá đi, nhiều lời mà rỗng tuyếch. “..khácđi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ..” “Cái cũ” với “cái đãtrở thành cũ” khác nhau ở chỗ nào? “Nhân cách của nhà văn chính làvăn cách của anh ta.” Ý này người ta đã nói xưa quá rồi: Không cần BàNhà Văn phải chỉ ra, em nhỏ lên ba cũng biết chuyện “Văn là Người“.
Câu bà viết “Tối thiểu tôi phải có một văn cách” không ăn nhậugì đến nhân cách, văn cách của ông Trần Dần.
Hôm nay – ngày 30 Tháng 8, 2011 – tôi, CTHÐ, viết thêm:
“Kinh nghiệm cho thấy “nhân cách” và “văn cách” khácnhau. Nhiều ông văn sĩ Văn thật Ðẹp, Hùng, tràn đầy Khí Phách, Cương Trực, BấtKhuất, nhưng “nhân cách” rất Hèn. Cứ đọc “Văn” mà đoán “tưcách Người Viết,” nhiều khi ta bị hố.
o O o
Thi phẩm “Trần Dần. Thơ” có thể để tênlà “Thơ Jờ Jọaxc”, 491 trang chỉ có toàn là “jờjoạxc truồng sẹo”.
Trích vài đoạn:
Trần Dần. Thơ. Trang 225:
tôi thíc sướng
tôi cái sẹo jữa vết xước nước ấm mét jạch lược bí
tôi cái thân chai vuông vai ngồi nhai joài joài 1 toạc jách 1 lạch juýp 1 jịpvú 1 nụ nóc 1 jạc sử kí
tôi thích thịt
dây nịt thít mít một jờ mật thạch thật nún nút mút kiss đèn đồng hồ mờ
tôi thíc thỏa
1 ngọa cắn 1 nắn mím 1 thím nách 1 jạch phím 1 jim núm 1 jụm sách 1 lạch joác 1xoạc bóc
tôi thán phục cái miệng hết vắt ve lăn thăn jờ thủy tạ
tôi xin cư trú thơ ca jọc jọc thì jờ truồng-vệ-xinh-công-cộng nữ
TRẦN DẦN. THƠ, trang 232:
CHÙM âm 13
con nữ tô tô jao cấu jăng nhọn chiếc ca pốt cao su jính thịt lănthăn vứt sẹo jọc ngày
giộb
hột
lựu
o O o
Tôi ngưng trích vì Thơ Trần Dần quá Bẩn, con người Trần Dần vàThơ Trần Dần làm tôi tởm; con người ấy bôi Bẩn lên Thơ, người ấy hiếp dzâm NgônNgữ của Dân Tộc tôi; tôi càng tởm khi tôi thấy Thơ Trần Dần Bẩn đến như thế màvẫn có người ca tụng, cho là Hay. Không chỉ Hay suông mà là Hay Tuyệt!
Không chỉ xưng tụng “Thơ Trần Dần Hay Tuyệt, Con NgườiTrần Dần Cao Thượng, Can Ðảm, Khí Phách,” người ta còn muốn Trần Dần được GiảiVăn Chương Nobel.
Trần Dần Jờ Dzoạc đáng được Giải Văn Chương Nô Ben. Cái Giải VănChương Nô Ben Trần Dần thiếu một dấu trong 5 dấu của Chữ Việt: Sắc, Huyền, Hỏi,Ngã, Nặng. Mời quí vị cho thêm một Dấu.
Nhà thơ Trần Dần trong cái nhìn của các nhà văn miền Nam Đặng Trần Huân và Hoàng Hải Thủy
Về nhà văn Trần Dần trên blog này ngày 19/11/ 2023 tôi từng đưa lại bài "Thủ lĩnh trong bóng tối"
của Phạm Thị Hoài, https://vuongtrinhan.blogspot.com/202...
bài này vốn lấy từ nguồn http://www.talawas.org/talaDB/showFil...
--
Trong việc đánh giá lại văn học nền văn học phát xuất từ Việt Bắc kháng chiến rồi phát triển lên ở Hà Nội đến 4-1975, tôi vẫn thấy trước sau rất nên tham khảo cái nhìn của các tác giả miền Nam (cả các nhà văn và giới nghiên cứu), bao gồm cả sự biến chuyển của cái nhìn này trong thời gian.
Lấy một ví dụ như hiện tượng Nhân Văn Giai Phẩm, các nhà văn Hà Nội này đã được các đồng nghiệp ben kia hiến tuyến viết như thế nào và hiện nay họ quan niệm như thế nào.
Tôi giới thiệu dưới đây một bài viết thuộc loại này bài của nhà văn Đặng Trần Huân nhân quyền Trần Dần nhớ và ghi in năm 2001
http://www.daichung.com/81/09_lan_gio...
DI CẢO CỦA TRẦN DẦN
Một nhà văn nổi tiếng khi chết đi thường còn những tác phẩm trong dạng bản thảo chưa kịp in mà ta gọi là di cảo. Cũng có những di cảo chưa phải là tác phẩm mà chỉ là những ghi chép được in thành sách. Như trường hợp Nhật Ký của Anne Frank hay Notes (tạp ghi) của nhà văn Pháp Albert Camus.
Ở hải ngoại, gần đây thân nhân nhà văn Trần Dần giao cho nhà TD Mémoire ở Ba Lê in những ghi chép lung tung của ông sau khi ông chết với cái tên sách là Ghi 1954 - 1960. Đó là một phần thời gian mà Trần Dần bị trừng trị vì liên quan tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
Vì là những ghi chép không dấu diếm và cũng không ngờ có ngày được in nguyên văn nên Trần Dần kể thực về những điểm xấu liên quan tới những nhà văn bạn hữu của ông. Như Thanh Châu là một người bất mãn, già tuổi nhưng không già tài: Anh ta luôn luôn thèm thuồng ti tiện, thèm ăn, thèm uống, thèm danh vị. Một tuần lễ mà anh không được ai mời đi ăn, có tí thịt vào mồm, thì tuần ấy vợ con mất nhờ! (tr. 249). Nhà thơ Quang Dũng là: “tiếng than của sự tàn lụi, giọt lệ của quá khứ, tiếng khóc của những chế độ đã qua”(251). Hoàng Cầm, người mà có thời cộng sản đã ca tụng là nhà thơ đuổi giặc thì được Trần Dần mô tả là một người hèn nhát, khi đi học tập về vụ Nhân Văn Giai Phẩm đã tố bạn bè để lấy lòng đảng, tố Văn Cao và khi Văn Cao tới nhà hỏi lại thì Hoàng Cầm lạy lục tạ tội (264, 265). Tháng 5. 1958 Hoàng Cầm đưa vợ chính thất là cô Xuyến ra tòa xin ly dị nhưng tòa không chấp thuận nên “H Cầm ra về như một cái tã (273). Nhạc sĩ Tử Phác tự dùng thuốc để cung cấp khoái lạc, được Văn Cao tặng cho biệt danh là anh Ba Vòi.(327)
Còn chính Trần Dần thì nói gì về mình trong những giòng ghi riêng tư đối với những ngày tù cải tạo?
Bùi Ngọc Tấn trong Chuyện Kể Năm 2000 chỉ mới đi tù có gần năm năm mà khi ra tù đã bị ám ảnh khủng khiếp, đi đâu cũng tưởng nhà tù, gặp ai cũng tưởng bạn tù. Trần Dần đi lao động cải tạo ở nông trường Chí Linh chưa tới nửa năm. Mặc dầu đường lối của đảng của ông tuyên truyền lao động là vinh quang mà mới phải vào vườn mía cuốc hai bên gốc mía mà Trần Dần đã thấy đau khổ và kể:
Vào bãi mía, như vào một chiến trường đặc biệt, có muôn lưỡi gươm cài tứ tung (tr 347)
Lại mía. Bắt rệp xong, đi lột lá.
Cái rẻ giết rệp, mủ dầy cộp, tanh ngheo ngheo. . . Tôi có cảm giác, đây là một bác sĩ, nặn mủ cho hàng nghìn người bị lở nhọt, mà chỉ có mỗi một cái giẻ!. . . Cứ hết mụn người này sang người khác. Kinh tởm. (349)
. . . . .
Lá mía. Công tác này kinh quá. Cứ một ngày bóc lá mía, là vài ngày xót và nhức tay . . .(349)
Hai tác giả này có biết có những người chiến sĩ quốc gia sau 30. 4. 75 bị cộng sản bắt tù tới 17 năm giòng dã, ăn không đủ no, ngủ chung với rệp, lao động khổ sai trên rừng đầy vắt, ruộng lúc nhúc đỉa, trong những ao phân lúc nhúc dòi như thế nào không ?
Bùi Ngọc Tấn sau khi ra tù vẫn không làm gì cho cộng sản, khác với Trần Dần dù đã từng làm những bài thơ tố cộng nhưng chỉ mới nếm thử ít mùi lao động đã sẵn sàng đầu hàng đảng ngay.
Để lấy lòng đảng cộng sản, Trần Dần không coi vụ án Nhân Văn Giai Phẩm là một vụ đàn áp mà chỉ là việc đấu tranh văn nghệ (262) và ca tụng chuyện đàn áp đó. Miền Nam gọi vụ đó là đàn áp thì Trần Dần bào chữa:
Ngược lại, ở Hà Nội nên dùng chữ cứu vớt thì đúng hơn. Bàn tay khoan dung của Đảng đã kéo những kẻ lạc đường ra khỏi cái tư tưởng độc địa của chủ nghĩa xét lại! Sao lại vu cho là khủng bố? (264).
Ngoài những dòng nhật ký ngắn cho biết diễn tiến và suy nghĩ của Trần Dần về vụ Nhân Văn Giai Phẩm và về những đồng nghiệp văn chương của ông, là những tài liệu không còn bí mật gì mấy mà chúng ta đã biết như bài chê thơ văn Tố Hữu, thơ Nhất Định Thắng, Hãy Đi Mãi, kịch thơ Cổng Tỉnh . . . và phần phụ lục gồm những văn kiện chính thức về vụ Nhân Văn Giai Phẩm , những bài viết về Trần Dần và tang lễ ông.
Phần nhật ký của Trần Dần trong cuốn Ghi 1954-1960 do nhà văn Phạm Thị Hoài chép lại từ nhật ký viết tay của ông đúng theo nguyên văn lối viết của tác giả mà chỉ sửa lại chính tả cho thống nhất. Cuốn sách mang tên Ghi 1954 - 1960 nhưng trong thủ bút ở trang 366 , Trần Dần viết là Ghi Vặt có lẽ đúng hơn vì có nhiều ngày tác giả chỉ ghi có hai, ba dòng, thậm chí có lúc chỉ có bốn hay năm chữ (134, 56, 108).
Phần biên niên Trần Dần: cuộc đời, tác phẩm, thời đại và những chú thích hẳn phải do Phạm Thị Hoài trách nhiệm. Là một nhà văn trưởng thành dưới chế độ cộng sản, bị bưng bít khi sống dưới chế độ đó nhiều năm, chỉ vượt thoát sang quốc gia tự do sau 1975 thôi nên bà còn mắc những sai lầm khi nhận xét về Việt Nam Cộng Hòa là điều dễ hiểu. Chẳng hạn bà vẫn tin vào sự vu khống của Việt cộng khi nói rằng người quốc gia đầu độc chết trên một ngàn tù cộng ở Phú Lợi (Bình Dương) năm 1958 (369) hay đảo lộn diễn tiến biên niên khi để ngày chết của Nhất Linh sau ngày binh biến 1. 11. 1963 (23) v . v . . .
Tuy nhiên, nói tổng quát, cuốn Ghi 1954-1960 là một cuốn sách cho ta những tài liệu bổ ích để hiểu thêm về những năm đầu khi cộng sản cai trị miền Bắc Việt Nam sau hiệp định Geneva 1954, với những ghi chép thật lòng của một nhà văn nay đã quá cố.
· Ghi 1954 - 1960 dày 470 trang, giá 18 mỹ kim. Nxb Văn Nghệ, Cali tổng phát hành.
---------------------------------
Còn đây là một bài viết tổng hợp về Trần Dần của Hoàng Hải Thủy:
https://hoanghaithuy.wordpress.com/20...

TRẦN DẦN NOBEL --
Bài đăng trên WEB, phát đi từ Hà Nội:
Trong buổi tọa đàm về cuốn tiểu thuyết “Những ngã tư vànhững ngọn đèn” của Trần Dần tổ chức ngày 16 tháng 6 năm 2011 tạiTrung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội, nhà thơ, dịch giả Dương Tường đã tâm sự:
“Ở Việt Nam, nếu có một người xứng đáng được nhận giải Nobel thìngười đó là Trần Dần.
“Trần Dần là một người khổng lồ, không dưới 30 tập thơ, ba tiểuthuyết, không kể những bản thảo bị mối mọt hay thất lạc … Còn phải nhiều nămnữa người ta mới đánh giá được kho tàng văn học do Trần Dần để lại”.
Dương Tường từng khẳng định Trần Dần là nhà cách tân thơ số mộtcủa Việt Nam.
Ông giải thich:
“Suốt một thời gian dài, thơ Việt Nam nằm trong quỹ đạo của ThơMới. Người đầu tiên tạo nên một vết cắt, đưa thơ Việt Nam ra khỏi quỹ đạo đó lànhà thơ Nguyễn Ðình Thi. Nhưng Nguyễn Ðình Thi không đi hết con đường của mình.Còn Trần Dần, từ những ảnh hưởng của Maiakovski, ông chuyển sang viết Jờ Joạcx,Mùa sạch… với những cuộc tìm kiếm không ngừng đến cái mới. Thơ Trần Dần đầychuyển động, không bao giờ lặp lại chính mình, nhưng vẫn giữ nguyên cái cốtcách Trần Dần”.
Trần Dần từng kêu gọi “Phải chôn Thơ Mới” …”phải viết khác đi,phải cách tân, phải quên những thành tựu của tiền chiến để sáng tạo nên nhữngthành tựu mới, phải cướp được độc giả của tiền chiến”…
“Tệ” hơn, ông còn đòi “chôn” cả Nguyễn Du:
“Với tôi, Du (Nguyễn Du), Hương (Hồ Xuân Hương), Khiêm (NguyễnBỉnh Khiêm), Quát (Cao Bá Quát) hay Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương là thầy. Nhưnghọc trò phải “chôn” thầy. Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ.Con chữ nó làm nghĩa.
“Mai sau dù có bao giờ” là con chữ “Chữ tài liền với chữ tai mộtvần” là đặt nghĩa”.
Bởi vì, ông tuyên bố:
“Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển” (Sổ bụi 1979).
Ông đòi hỏi nhà văn phải là:
“Kẻ viết đạp đổ chân trời? Xổng xích các chân mây?” (Sổ bụi –1985).
--
Bộ sách Trần Dần ghi 1954-1960 gồm ba quyển: quyển một là nhữngsuy nghĩ về sáng tạo, quyển hai chụp lại thời kỳ đấu tố với những hình ảnhkhủng khiếp kinh hoàng, quyển ba viết về cuộc sống con người trong những năm bịcầm tù.
Trong quyển Một, có những dòng sau:
– Người Sáng tạo là đại biểu cho Tương lai. Nên hắn mâu thuẫnrất mạnh với Hiện tại.
– Người Sáng tạo chỉ làm chủ được ở Tương lai. Còn ở Hiện tại,hắn phải chịu như là thua, nhường cho những kẻ tầm thường khác làm chủ.
– Nếu có chịu được búa rìu của thành kiến mới có thể làm ngườisáng tạo được. Phải có dạ lim trí sắt.
– Phải có gan đứng lên trên dư luận, chửi mắng, mưa bão. Phảibiết đạp mưa xéo gió. Phải phá vỡ cái luân-lý-hiện-hành, những nguyên tắc tụclệ hiện nay đang làm chủ. Ðó là bỏ cái ba lô của hiện tại, mới có thể xốc tớitương lai.
– Số phận người sáng tạo bao giờ cũng phải chịu hiểu lầm, chịunhững sấm sét của cái cũ nó phản công. Vì người sáng tạo là kẻ thù không đợitrời chung của cái cũ. Mà cái cũ nó không chịu chết ngay, nó nhiều kế độc, hạingầm và hại ra mặt.
Ðiều kiện tiên quyết để sáng tạo: Tự do
(Ngưng Lời Dương Tường kể về Trần Dần)
o O o
CTHÐ (Công tử Hà Đông):
TRẦN DẦN.GHI được xuất bản ở Parisnăm 2001, sau khi Trần Dần qua đời ở Hà Nội. Ở Kỳ Hoa Ðất Trích, tôi đọc GHI,nhớ lại chuyện xưa tôi thấy đau lòng.
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, nước còn trau mặt với tangthương.
Trong GHI, ngoài việc lên tiếng đầu hàng, hối lỗi, nhận tội, tựchửi rủa mình và mạt sát các bạn văn nghệ sĩ cùng nhóm, hết lời ca tụng Ðảng,Trần Dần viết nhiều câu khinh bỉ “bọn miền Nam“, tức những người Quốc Gia ViệtNam Cộng Hòa, những người đã lên tiếng bảo vệ những văn nghệ sĩ Hà Nội trongnhóm gọi là Nhân Văn Giai Phẩm. Tôi sẽ kể lại những lời vô ơn, đểu giả, ngungốc ấy đúng như lời Trần Dần ghi trong GHI.
Tôi không thấy bực bội khi đọc trong GHI những lời Trần Dần viếtvề Quốc Gia VNCH của tôi, tôi chỉ thấy thất vọng, chán chường, buồn nản, tôithương hại những văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm — NVGP — nhất là baông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt, ba người từng được coi là “Những Kiện TướngNhân Văn Giai Phẩm.”
Tôi thương hại họ và tôi thương hại tôi: trong nhiều năm tôitưởng nhóm NVGP — rõ hơn là ba ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt — là những ngườiđàng hoàng, tư cách, can đảm — những “ Kẻ sĩ Bắc Hà” — nhữngkẻ sĩ dám công khai chống lại Ðảng Cộng Sản, dám lý luận đả kích chính sáchlãnh đạo văn nghệ của Ðảng, dám chấp nhận những hậu quả tai hại, nguy hiểm củaviệc họ làm!
GHI cho tôi thấy những văn nghệ sĩ NVGP Nhân Văn Giai Phẩm mà tôi cảm phục trong mộtthời gian dài đến 40 năm đã đầu hàng Ðảng CS, đúng ra là đầu hàng Tố Hữu.
Không phải là tất cả, nămxưa ấy — những năm 1957, 1958, 1959, 1960 ở Hà Nội — có những văn nghệ sĩbị đàn áp, bị tù đày, nhưng không đầu hàng Ðảng, như Phan Khôi, Trương Tửu, HữuLoan, Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Trần đức Thảo, nhưng ba người nổi tiếng nhấttrong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đã quì gối, rậpđầu, uốn lưỡi nhận tội trước cái gọi là Ðảng, trước bọn được gọi hết sức mơ hồ,mờ ám là “lãnh đạo“, rõ hơn là trước Tố Hữu.
--
Năm nay, 2008, tác phẩm TRẦN DẦN. THƠ đượcxuất bản ở trong nước — Nhà Xuất Bản Ðà Nẵng — được đưa sang Hoa Kỳ bán với giá20 Mỹ kim ở Cali, tôi viết bài “Ðọc TRẦN DẦN. THƠ.”
Tôi trích đăng ở đây vàiđoạn trong bài tôi viết năm 2001 về quyển GHI của Trần Dần.
***
Ðây là lời Trần Dần:
GHI.Trần Dần. Trg 226. Trích:
…Từ đầu năm (và cả trước nữa) tôi đã nhiều lần nói với nhữngLÐạt, ÐđHưng, cả TDuy nữa, về những khuyết điểm, về những cái tội của NVGP, vàcủa bản thân tôi.
Tôi đã đến với đồng chí THữu, nói như tuyên bố về việc học chínhsách với thực tế. Thế tại sao đồng chí THữu là người quản lý việc học của Ðảng,lại không mở cửa cho một người đã đến thành tâm gõ cửa?
Ôi chao!
La porte m’est-elle fermée à jamais?
GHI. Trg 240, 241. Trích:
Tôi là cái gì?
Trước Cách Mạng, tôi là một thứ hổn lốn phản động của những tưtưởng tư sản, địa chủ: hưởng lạc đến đồi trụy, hám danh to đến bệnh “vĩ đạicuồng”, vô chính phủ đến phá phách mọi trật tự, thoát ly đến rơi vào sinh hoạtsa đọa, và đi vào các trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật, tượng trưng, lậpthể, siêu thực… và vào triết học ru ngủ tối phản động của Bergson.
Trong Kháng Chiến, con người phản động đó bị trấn áp, hoàn cảnhchiến tranh và chân lý vô sản đè cổ nó xuống, nhưng việc nạo rửa mới chỉ đượcmột phần nào.
Trở về hòa bình, nhân cơ hội cách mạng gặp khó khăn khắp thếgiới và trong nước, lại gặp hoàn cảnh một thành phố “Mỹ hóa” như Hà Nội, tứcthì con người phản động cũ của tôi nó lộn lại. Nó không hiện nguyên hình nhưcũ, mà khoác áo mới, những “chống công thức”, “đi tìm cái mới”, thực chất đóchỉ là cái vỏ che đậy cho cái ruột thối của chủ nghĩa xét lại và tư tưởngtrotskiste.
Con người phản cách mạng như thế phát triển với tốc độ “tử vìđạo”, nó phá phách khi hung hãn, khi tinh vi mọi cản trở, tức là mọi nguyên tắcvà lý luận cách mạng, nó húc đầu bướng bỉnh và tàn nhẫn vào quy luật phát triểnkhách quan của lịch sử. Nó đấu tranh ở bộ đội, ra Giai Phẩm Mùa Xuân, làm thơphá hoại, đứng cùng hàng ngũ bọn NVGP, bắn lại cách mạng, bắn lại Ðảng, trong khiÐảng vẫn dang lớn hai cánh tay kêu gọi nó lộn về, ngực Ðảng hở, vô tình, bịviên đạn nhẫn tâm nó bắn đến bị thương.
Không thể đếm hết được những viên đạn ròng rã trong ba năm quatôi đã bắn vào Ðảng, khi thẳng mặt, khi bắn sau lưng, lợi dụng tình thương củaÐảng mà phản bội. Cứ thế, đối Ðảng, đối nhân dân, đối bạn bè, đối gia đình, đốivăn học, tôi đã gây biết bao tình tội, mà suốt một đời còn lại, làm việc và ănnăn hết lòng, cũng khó mà xóa đi cho hết.
Tôi đã tự lừa dối là người có óc suy nghĩ độc lập. Song sự thựcchứng tỏ tôi chỉ là một con rối mà những đường dây tư tưởng thù nghịch nó đãgiật cho múa may tùy thích.
Tôi đã tự lừa dối tôi là một martyr của Ðảng quan liêu, song sựthực chứng tỏ đối Ðảng, đối nhân dân tôi là một kẻ tội đồ mà dân ta, Ðảng tacòn chưa trừng trị.
Tôi đã tự lừa dối tôi là tôi đi một còn đường cao quý, con đườngchịu tội cho loài người (chemin de calvaire) Song sự thực chứng tỏ con đườngtôi đi chỉ là con đường phản bội, con đường phá hoại, nhơ bẩn và tàn nhẫn.
Tôi đã tự lừa dối là tôi tử vì đạo vì mục đích đi tìm cái mớicho xã hội, cho văn học, cho con người. Song sự thực chứng tỏ tôi đã là đứa taysai muốn chết cho bọn tư sản phản động, cho chủ nghĩa xét lại, cho tư tưởngtrotskiste, và cho bọn đế quốc chúng đứng trên cao hết, chăng ra một bức mạngnhện những tư tưởng hiểm nghèo và độc địa.
o O o
Ngày 17-5-1958, Trần Dần viết về Quốc Gia VNCH.
GHI,trang 262. Trích:
Miền Nam cắn lại trả thù cái đòn “công hàm” 7/3 của ta, bằngnhiều cách:
– ra tuyên cáo chĩa lại mũi nhọn vào LXô và Ðảng
– phản tuyên truyền về việc đấu tranh Nhân Văn Giai Phẩm.
Trần Chánh Thành bộ trưởng bộ TTX Thanh Niên của Diệm, đầu sỏbáo Dân Chúng,-- hắn làm một chiến dịch xuyên tạc việc đấu tranh văn nghệ, tungtin 17 văn nghệ sĩ “dũng cảm” bị “Việt Cộng” bắt, in lại Nhân Văn Giai Phẩm,khuyên người ta nên đọc đó mà xem, “khỏi còn có ảo tưởng gì về sự tự do củaViệt Cộng”!
Tóm lại, luận điệu chúng rất là Mỹ, nghĩa là vu cáo đến cynique,lại bịa đặt đến ngu si, gian ngoan đến lộ liễu.
Tôi bị cái nhục chúng nhắc đến trong số văn nghệ sĩ “dũng cảm”kia; tất cả số văn nghệ sĩ đó đều đã thấy rõ tội lỗi của mình trong cuộc đấutranh tư tưởng vừa qua. Tất nhiên mọi cuộc đấu tranh tư tưởng đều có cái gay gocần thiết của nó, nhưng đây là cái gay go của sự cứu vớt, cái gay go của tìnhyêu của Ðảng, phải kiên quyết cứu số văn nghệ sĩ đáng giận kia ra khỏi cái cũicủa chủ nghĩa xét lại.
Ðâu là chuyện bắt bớ, cầmtù? Có chuyện ấy, nhưng lại ở Sàigòn, hàng chục văn nghệ sĩ bị đưa ra tòa, chỉvì tội tự do ngôn luận chính đáng, họ đã nói tới vấn đề thống nhất, có vậythôi! Ở Hà Nội này, người ta lại khuyến khích việc đòi thống nhất, tha hồ thảsức mà nói! Ở đâu, có tự do yêu nước, tự do bàn đến số mệnh của Tổ Quốc, SàiGòn hay Hà Nội? Ở đâu, những văn nghệ sĩ chỉ vì thi hành quyền công dân củamình mà lại bị tù hàng loạt?
Sự thực, ở Hà Nội, ta có bắt 3 tên NhÐang, MÐức, ThAn. Nhưng saolại gọi họ là văn nghệ sĩ? NhÐang là một nhạc sĩ chăng? Hay một thi sĩ, một họasĩ? Tuyệt nhiên không phải, cả đến gọi là phê bình hay nghiên cứu văn học cũngkhông phải.
NhÐang chỉ là một thủ lĩnh của chủ nghĩa xét lại, nhè những sơhở trong văn nghệ nhẩy vào mà phá. MÐức là một tên phá hoại làm nghề xuất bản,hắn vừa có cái căm thù chế độ miền Bắc, vừa có cái đầu óc buôn tên người, coivăn nghệ sĩ là những món hàng, nhìn văn chương thành ra những tệp giấy bạc lờilãi, đánh giá sự hay dở của tác phẩm duy nhất trên tiêu chuẩn bán chạy haykhông, quan điểm “best seller” trong văn nghệ!
Còn Thụy An, đó quả là một mụ có viết lách tí tỉnh. Song mụ bịbắt không phải vì tội “cầm bút”, mà là vì tội làm gián điệp.
Vậy thì, ai là văn nghệ sĩ bị bắt ở Hà Nội?
Ðâu là chuyện khủng bố? Nếu nói khủng bố thì ở miền Bắc nàyngười ta không quen nói chuyện với văn nghệ sĩ bằng quả đấm hay lưỡi gươm luậtpháp! Có cần nhắc lại không? Năm ngoái Tổng Thống đã nhờ đến du côn đem đá đếnnói chuyện với báo Tiến Thủ như thế nào? Năm nay, mấy chục nhà báo ra trướcvành móng ngựa của Tòa “bất công lý” Sài gòn?
Ngược lại, ở Hà Nội, nên dùng chữ cứu vớt thì đúng hơn. Bàn taykhoan dung của Ðảng đã kéo những kẻ lạc đường ra khỏi cái tư tưởng độc địa củachủ nghĩa xét lại! Sao lại gọi là khủng bố?
Un grand mensonge cousu de fil blanc!
GHI.Trg 301. Trích:
Quán đưa tôi xem một bản tin miền Nam. Ðâu như do một anh bạnnào bên Văn Hóa cho mượn.
Bản tin nói xấu tình hình văn học miền Bắc. Luận điệu mốc rồi,vẫn chỉ vu là: miền Bắc thiếu tự do! Tôi bị cité, cùng với HCầm, Phan Khôi,Thụy An (!) Ngồi với cái cỗ ấy mới hôi chứ!
o O o
Tôi – CTHÐ – mời quí vị xét tư cách con người Trần Dần quanhững lời anh viết trong Ghi — như những lời được trích trên đây — đáng kể nhấtlà việc anh làm với văn nghệ sĩ Phùng Cung năm xưa ở Hà Nội, như kể dưới đây:
Phùng Hà Phủ, người con trai của Nhà Văn Phùng Cung, kể tronglời giới thiệu tác phẩm “PHÙNG CUNG. Truyện và Thơ.” Nhà Văn Nghệxuất bản ở Hoa Kỳ năm 2003, sau ngày Nhà Văn Phùng Cung qua đời.
Phùng Hà Phủ. “PHÙNG CUNG. Truyện và Thơ”
Nhớ lại theo lời bố tôi kể “khi xảy ra chuyện”, buổi sáng hôm đóbố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Ðến nơi thấy mọi người xung quanh đềucó ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả nhữngbạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt.
Ngay sau đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thựcchất gần như một buổi đấu tố thời “cải cách” của Liên Hiệp các Hội Văn Học NghệThuật (gồm cả đại diện bên Văn Nghệ Quân Ðội).
Chủ trì cuộc đấu tố làcác ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Ðình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh… Cảm tưởng đauxót và ngỡ ngàng nhất của bố tôi là những ông bạn thường ngày chơi thân với bốtôi đều tham gia vào cuộc “đấu tố”.
Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên mở đầu cuộc “tố” đểtiếp đó hai ông Lê Ðạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị “tố”là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình, lôi kéo người kháccùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác – Tất cảnội dung đều tập trung vào việc đả kích lãnh tụ và Ðảng Cộng sản như: Dạ ký,Chiếc mũ lông, Quản thổi, Kép Nghế… Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gialàm báo Nhân Văn nhưng theo mẹ tôi thì còn nhiều lý do khác nữa.
( .. .. .. )
Từ ngày ra tù, bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quanhệ với ai ngay cả với các bạn văn quen biết cũ. Nhiều người trực tiếp “tố” bốtôi ngày xưa thấy hối hận về việc làm của họ nên họ tìm đến xin lỗi bố tôi.
Trong dịp bố tôi và bác Phùng Quán đứng ra tổ chức Lễ Mừng SốngDai cho ông Nguyễn Hữu Ðang — (Ông Ðang là cán bộ văn nghệ, ông bị bắt tù 18năm. Lúc này ông đã 81 tuổi.) — Các ông văn nghệ đến dự Lễ Mừng rất đông, ôngLê Ðạt cũng đến, ông đứng bên bố tôi và nói: “Cung ơi, dù có thế nào tao vẫn làbạn của mày, tao có lỗi với mày. Có gì, mày cứ gọi tao ra mà mắng.” Ông HoàngCầm cũng đến gặp bố tôi, ngỏ ý muốn nối lại tình thân với bố tôi như xưa.
o O o
CTHÐ : Qua lời kể của Phùng Hà Phủ, tôi thấy bộ mặt hèn,đểu của ba “Kiện tướng Nhân Văn Giai Phẩm.” Tôi muốn viết thêm “không biếtnhục” nhưng tôi không viết, vì tôi thấy hai tiếng “hèn, đểu” là đã đủ để gọi bangười đó. Những người hèn đểu thường không biết nhục.
Người ta có thể hèn mà không đểu, có thể đểu mà không hèn, ba“Kiện tướng NVGP” Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm vừa hèn, vừa đểu. Người thường cóthể Hèn và Ðểu, nhưng Kẻ Sĩ thì không thể.
Nếu không có Phùng Hà Phủ kể chuyện, gần như không có người Việtnào biết về « Phiên Tòa Ô Nhục NVGP » năm xưa do Ba Kiện TướngNVGP Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm muối mặt kể tội Văn sĩ Phùng Cung. Trong baonhiêu năm, ba Kiện Tướng không ông nào dám nhắc đến Phiên Toà này. Bao nhiêungười phỏng vấn ba Kiện Tướng cũng không ai hỏi ba ông về phiên toà. Tôi chắcvì Phiên Toà này, ba ông Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm không ông nào dám viết HồiKý về Nhân Văn Giai Phẩm.
Qua mấy chuyện tôi kể trên đây, xin quí vị định luận về tư cách,về con người của Trần Dần.
Nay mời quí vị xét về tài năng của Trần Dần :
Năm 1956 Trần Dần làm bài thơ “Nhất định thắng” bắtchước kiểu thơ lập dị — cà chớn của Thi sĩ Nga Mayakosky. Ý thơ không có gì lạ,nó lạ ở cách trình bầy lời thơ trên giấy khấp khểnh theo kiểu bậc thang, như :
…..Tôi bước ra
……….không thấy phố
……………không thấy nhà
Thơ kiểu này là “Thơ xuống thang”. Những văn nghệ sĩ BắcCộng Xã Hội Chủ Nghĩa chuyên ca tụng Liên Xô Vĩ Ðại và bắt chước các đàn anhNga, Tầu, nhưng chỉ có một mình Trần Dần là bắt chước kiểu Thơ KhấpKhểnh của Mayakosky.
Ðây là Thơ Trần Dần “sáng tác” sau năm 1960:
jờ joạcx.
Trích:
Chính tả như một phương tiện nghệ thuật: Talawas xin giới thiệumột trích đoạn: “jờ joạcx“, một trong những tác phẩm then chốt của sự nghiệpthơ Trần Dần, dicảo, chưa xuất bản.
jờ joạcx
thơ-tiểu thuyết một bè đệm
joạc jờ jêrô… vòng tròn
thằng truồng bị vây trong vòng tròn.
tôi không hiểu tôi bò 2 chân trên sẹojoạc jờ nào?
sao cứ thun thút những sẹo mưa jọc jài ỗng ễnh bầu mưa?
chứ tôi đâu phải thằng quíc-ss? mà tôi vẫn
bị ngửa thì jờ ướt mưa jòng mùa jọc nịt joạc
vườn jịch ngực joạt đùi jầm mùi jũi lòng.
tôi biết jành jạch sử kí cả những luồng phùn mọc lọc người đi.
hôm nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịc mịch ngày tôi đi
song song cơn mưa to juỳnh juỵch jạng đông
tôi gặp một con nữ vận động viên ướt jượt toàn thân
chạy joạch vòng mưa jòng jòng
1 – 9 – 6 – 3 min mét nữ.
jờ jạchx nở jòn jọtx
chính ja tôi thíc cái yếm
nín cái nịt thịt của các kilômét đùi joạcx.
Tôi gương trong jập mùng đùi sẹo nữ.
tôi là một cái sẹo mòng mọc khoái jữa các
sẹo bàn ghế tủ nam nữ đồ đạcx.
o O o
Mời quí vị đọc một lời tán tụng Nhà Thơ Lớn Xã Hội Chủ NghĩaTrần Dần Jờ Jọaxc.
Nhà văn Phạm thị Hoài viết:
“Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà hammuốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượtqua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoàimình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lạilàm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. Từ 1958 đến nayTrần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bứcvới những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lạiồn ào dấy lên bên ngoài. Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ nhưTrần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới.
“Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúckết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tối thiểutôi phải có một văn cách.”
Ngưng trích Lời Bà Phạm Thị Hoài
Chẳng đặng đừng, tôi — CTHÐ — phải viết đôi dòng:
“Bà văn sĩ nhiều lời quá đi, nhiều lời mà rỗng tuyếch. “..khácđi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ..” “Cái cũ” với “cái đãtrở thành cũ” khác nhau ở chỗ nào? “Nhân cách của nhà văn chính làvăn cách của anh ta.” Ý này người ta đã nói xưa quá rồi: Không cần BàNhà Văn phải chỉ ra, em nhỏ lên ba cũng biết chuyện “Văn là Người“.
Câu bà viết “Tối thiểu tôi phải có một văn cách” không ăn nhậugì đến nhân cách, văn cách của ông Trần Dần.
Hôm nay – ngày 30 Tháng 8, 2011 – tôi, CTHÐ, viết thêm:
“Kinh nghiệm cho thấy “nhân cách” và “văn cách” khácnhau. Nhiều ông văn sĩ Văn thật Ðẹp, Hùng, tràn đầy Khí Phách, Cương Trực, BấtKhuất, nhưng “nhân cách” rất Hèn. Cứ đọc “Văn” mà đoán “tưcách Người Viết,” nhiều khi ta bị hố.
o O o
Thi phẩm “Trần Dần. Thơ” có thể để tênlà “Thơ Jờ Jọaxc”, 491 trang chỉ có toàn là “jờjoạxc truồng sẹo”.
Trích vài đoạn:
Trần Dần. Thơ. Trang 225:
tôi thíc sướng
tôi cái sẹo jữa vết xước nước ấm mét jạch lược bí
tôi cái thân chai vuông vai ngồi nhai joài joài 1 toạc jách 1 lạch juýp 1 jịpvú 1 nụ nóc 1 jạc sử kí
tôi thích thịt
dây nịt thít mít một jờ mật thạch thật nún nút mút kiss đèn đồng hồ mờ
tôi thíc thỏa
1 ngọa cắn 1 nắn mím 1 thím nách 1 jạch phím 1 jim núm 1 jụm sách 1 lạch joác 1xoạc bóc
tôi thán phục cái miệng hết vắt ve lăn thăn jờ thủy tạ
tôi xin cư trú thơ ca jọc jọc thì jờ truồng-vệ-xinh-công-cộng nữ
TRẦN DẦN. THƠ, trang 232:
CHÙM âm 13
con nữ tô tô jao cấu jăng nhọn chiếc ca pốt cao su jính thịt lănthăn vứt sẹo jọc ngày
giộb
hột
lựu
o O o
Tôi ngưng trích vì Thơ Trần Dần quá Bẩn, con người Trần Dần vàThơ Trần Dần làm tôi tởm; con người ấy bôi Bẩn lên Thơ, người ấy hiếp dzâm NgônNgữ của Dân Tộc tôi; tôi càng tởm khi tôi thấy Thơ Trần Dần Bẩn đến như thế màvẫn có người ca tụng, cho là Hay. Không chỉ Hay suông mà là Hay Tuyệt!
Không chỉ xưng tụng “Thơ Trần Dần Hay Tuyệt, Con NgườiTrần Dần Cao Thượng, Can Ðảm, Khí Phách,” người ta còn muốn Trần Dần được GiảiVăn Chương Nobel.
Trần Dần Jờ Dzoạc đáng được Giải Văn Chương Nô Ben. Cái Giải VănChương Nô Ben Trần Dần thiếu một dấu trong 5 dấu của Chữ Việt: Sắc, Huyền, Hỏi,Ngã, Nặng. Mời quí vị cho thêm một Dấu.
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers
