Vương Trí Nhàn's Blog
November 17, 2025
Christopher Goscha: 50 năm kết thúc chiến tranh: Việt Nam, một lịch sử khác?
·
Lời giới thiệu của Alex TháiTác giả Christopher E. Goscha là một nhà sử học người Mỹ-Canada, hiện là giáo sư chính tại Đại học Québec à Montréal (UQAM), nơi ông giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế, chiến tranh Việt Nam và lịch sử thế giới.
Ông chuyên nghiên cứu về Chiến tranh Lạnh ở châu Á, quá trình phi thực dân hóa và các cuộc chiến tại Việt Nam. Goscha bảo vệ luận án tiến sĩ tại École Pratique des Hautes Études (Pháp) năm 2000 với đề tài về Chiến tranh Đông Dương trong bối cảnh xuyên quốc gia. Ông đã biên soạn và xuất bản hơn một chục đầu sách, trong đó có Historical Dictionary of the Indochina War (1945–1954), được tạp chí Choice xếp vào danh sách "Outstanding Academic Titles 2012" (Sách học thuật xuất sắc năm 2012).
Năm 2016, Goscha xuất bản cuốn Vietnam: A New History, đoạt giải John K. Fairbank 2017 và được đánh giá là một trong những công trình toàn diện nhất bằng tiếng Anh về lịch sử Việt Nam hiện đại. Gần đây, ông tiếp tục gây tiếng vang với The Road to Dien Bien Phu: A History of the First War for Vietnam, một khảo cứu nhiều chiều cạnh về chiến thắng Điện Biên Phủ của Hồ Chí Minh trước thực dân Pháp – sự kiện được xem như đã báo trước trải nghiệm của Mỹ tại Việt Nam sau này.
-
Với đa số độc giả ngoài Việt Nam, quốc gia ven biển nhỏ bé này vẫn thường gắn liền với cuộc chiến kéo dài một thập kỷ, khi quân đội Hoa Kỳ sa lầy trong nỗ lực ngăn chặn cộng sản miền Bắc tiến chiếm một miền Nam không cộng sản. Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975 với sự thất bại nặng nề của Mỹ.
Nỗi thất bạicũng phủ bóng lên ký ức của Pháp về thuộc địa cũ. Thất bại ê chề mà Pháp phảichịu trong trận Điện Biên Phủ năm 1954, khi quân đội của Võ Nguyên Giáp chấmdứt 80 năm thống trị thuộc địa, vẫn còn vang vọng trong đời sống chính trị Phápcho đến ngày nay.
Ở Việt Nam,chiến thắng vẻ vang này trở thành chủ đề chiếm vị trí trung tâm trongcách dân tộc này hình dung về chính mình.
Mỗi năm, hàngtriệu học sinh và học viên quân sự được dạy rằng đất nước hình chữ"S," trải dài từ sông Hồng ở miền Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long ởmiền Nam, được xây dựng từ truyền thống bền bỉ chống lại sự xâm lược từ bênngoài. Trước khi đánh bại người Pháp và người Mỹ, người Việt đã từng đẩy lùicác đội quân xâm lược từ Trung Quốc và Mông Cổ.
Hồ Chí Minhchỉ là một trong số nhiều anh hùng đã giành lại độc lập cho Việt Nam. Theo cáchnhìn này, cả Pháp lẫn Mỹ chỉ có thể tự trách mình vì đã phớt lờ những bài họctừ lịch sử.
Tuy nhiên,việc xây dựng một câu chuyện lịch sử xoay quanh truyền thống kháng chiến sẽche mờ nhiều yếu tố quan trọng khác, và đó chính là cái giá của nó. Việc kiếntạo một quá khứ trong đó Việt Nam – với đường biên giới và hình dạng như tathấy ngày nay – luôn là một thực thể thống nhất chống lại ngoại xâm đã che phủmột lịch sử phức tạp và thú vị hơn nhiều.
Thực tế, dảiđất hình chữ S mà ta thấy trên bản đồ hiện nay không phải lúc nào cũng tồn tạiở hình dáng ấy. Giống như Hoa Kỳ, Nga hay thậm chí Trung Quốc, Việt Nam cũng làsản phẩm của quá trình mở rộng thuộc địa của chính mình. Và, như các đế chếkhác trong lịch sử, quốc gia này khởi đầu từ một vùng lõi nhỏ trước khi bànhtrướng thành một thực thể mang hình thái đế chế.
Cái nôi củanền văn minh Việt nằm ở đồng bằng sông Hồng, nơi một nhà nước độc lập, tậpquyền với kinh đô Cổ Loa hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên,gần thủ đô Hà Nội ngày nay. Dù là một nhà nước sôi động và phát triển vượt bậcso với bối cảnh đương thời, nền độc lập của Cổ Loa đã nhanh chóng chấm dứtkhi đế chế Trung Hoa ở phương Bắc bắt đầu cho quân tiến vào vùng biên cương.Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, Trung Hoa giành quyền kiểm soát vùng sông Hồng,biến Việt Nam thành quận cực nam của đế chế, mang tên Giao Chỉ. Khi ấy, lãnhthổ Việt Nam chỉ gói gọn ở đồng bằng sông Hồng và nằm dưới ách cai trị TrungQuốc trong một ngàn năm.
Sự cai trịcủa Trung Hoa đôi khi rất khắc nghiệt. Đã có những thời khắc người Việt khángcự quyết liệt, trong đó có cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứnhất Công nguyên. Quân đội nhà Hán đã được điều động để trấn áp phong tràonày. Tuy nhiên, cũng có nhiều người Việt hợp tác với chính quyền Trung Hoa, coisự cai trị ấy như một phương tiện thúc đẩy cải cách và hiện đại hóa. Trênthực tế, một ngàn năm dưới ách đô hộ đã khiến nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa ănsâu vào đời sống ở Giao Chỉ.
Các quan lại Trung Hoa giới thiệunhững khái niệm mới về luật pháp, thời gian và không gian (như các bộ luật,niên lịch, hệ thống đo lường, trọng lượng và bản đồ), cùng với nghệ thuậtquản lý hành chính, vũ khí, giấy và kèm theo đó là hệ thống chữ viết theo kýtự. Văn hóa của tầng lớp tinh hoa ở đồng bằng sông Hồng cũng thay đổi với sựxuất hiện của kiến trúc cung đình, âm nhạc, nghệ thuật và ẩm thực lấy cảm hứngtừ Trung Hoa, bao gồm cả việc sử dụng đũa. Trong giai đoạn này, Nho giáo vàPhật giáo Đại thừa trở thành một phần của đời sống văn hóa Việt Nam.
Khi đế chếTrung Hoa suy yếu vào cuối thời Đường (618–907), người Việt giành lại độc lậpvào thế kỷ 10, nhưng lại mất nó một lần nữa vào đầu thế kỷ 15, khi triều Minhkhôi phục đế chế bằng cả biện pháp chính trị lẫn quân sự. Lần đô hộ thứ hainày không kéo dài lâu; đến năm 1427, người Việt lại giành được độc lập sau mộtcuộc kháng chiến. Song, việc thoát khỏi hệ thống đế chế Trung Hoa không cónghĩa là chủ nghĩa thực dân không còn hiện diện trong câu chuyện của Việt Nam.Thực tế, nó vẫn là lực đẩy quan trọng định hướng mạnh mẽ trong tiến trìnhlịch sử.
Tương tự nhưngười Mỹ thoát ly khỏi Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 nhưng sau đó lại tạodựng một nhà nước thuộc địa riêng của họ bằng cách tiến dần về phía tây raThái Bình Dương, người Việt cũng chọn con đường bành trướng. Với sự rútlui của Trung Hoa, người Việt tập trung hướng tới việc kiến tạo đế chế riêngmình, chinh phục các vùng đất phía nam bằng vũ lực, nghệ thuật trị quốcvà ý thức hệ thuộc địa theo tinh thần Nho giáo được coi là "ưu việt"mà họ tiếp thu từ Trung Hoa.
Trong bướctiến xuống phương nam, cùng với quân lính, quan lại và dân di cư, các hoàng đếViệt Nam thiết lập những phủ bảo hộ, thúc đẩy việc định cư, đồng thời luânphiên áp dụng hình thức cai trị "trực tiếp" và "gián tiếp"đối với các cộng đồng xa xôi, đa sắc tộc, như một phần trong sứ mệnh khai hóacủa mình. Nếu người Mỹ chinh phục các tộc người bản địa và đẩy lùi các đế quốcchâu Âu tại Bắc Mỹ, thì người Việt cũng chinh phục người Chăm ở miền Trung,người Khmer thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, cùng nhiều cộng đồngphi Việt ở vùng cao nguyên lân cận.
Triều Lê, tồntại từ năm 1428 đến 1789 sau khi nhà Minh rút lui, chịu ảnh hưởng sâu sắc từcuộc tiếp xúc "thuộc địa" này. Khi giành lại Việt Nam và xưng đế vàonăm 1428, Lê Lợi cùng những người kế vị đã tái tổ chức nhà nước theo khuôn mẫuNho giáo. Vị hoàng đế này nhìn thấy cơ hội làm được điều mà các bậc tiền nhântừng thất bại: thiết lập quyền lực tập trung trên một đất nước rộng lớn và khóquản lý. Ông và các thế hệ kế vị thúc đẩy mô hình trị quốc theo tinh thần Nhogiáo thông qua việc mở mang trường học, đẩy nhanh các kỳ thi tuyển quan lại,và ban hành bộ luật nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức) mang đậm dấu ấn Nho giáo.
Việc mở rộnglãnh thổ quá nhanh đã châm ngòi cho nội chiến và sự hình thành các thế lực ViệtNam đối nghịch, cạnh tranh quyền kiểm soát một thực thể chính trị đang bànhtrướng. Dù danh nghĩa cai trị đất nước thuộc về triều Lê, nhưng từ sau khiTrung Hoa rút lui ở thế kỷ 15, thực tế đã hình thành hai Việt Nam: miền bắcdo họ Trịnh nắm quyền quân sự, và miền nam do các chúa Nguyễn lãnh đạo trongquá trình bành trướng. Đến thế kỷ 18, nhà Nguyễn ở phương nam đã trở thànhmột nhà nước gần như độc lập, với triều đình, bộ máy hành chính và quânđội riêng. Mọi nỗ lực của họ Trịnh nhằm đánh bại thực thể này đều thất bại.
Nội chiến leothang trong thập niên 1770, khi ba anh em nhà Tây Sơn, dựa vào làn sóng phẫnuất vì đói nghèo của nông dân vùng cao nguyên miền Trung, đã đánh bật nhàNguyễn khỏi kinh đô Huế và dồn họ vào các căn cứ trong rừng ở đồng bằng sôngCửu Long. Nhà Tây Sơn sau đó hướng ra bắc và cuối cùng lật đổ luôn họ Trịnhvào cuối những năm 1780. Nhà Thanh tìm cách can thiệp nhưng bất thành và cuốicùng cũng bị Tây Sơn đánh đuổi.
Tuy nhiên,tàn dư của nhà Nguyễn vẫn bám trụ từ các căn cứ rừng sâu. Thực ra, cuộc nộichiến kéo dài 30 năm chỉ thật sự chấm dứt khi dòng họ Nguyễn có một màn trở lạingoạn mục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ánh. Vị lãnh đạo quân sự quyết đoán nàyđã chỉ huy đoàn quân tiến dọc bờ biển, đưa hải quân bắc tiến, đánh bại nhà TâySơn rồi lập nên đế chế Việt Nam vào năm 1802. Dáng hình chữ S của Việt Nam ngàynay có từ năm ấy, kết quả của nhiều thế kỷ mở rộng lãnh thổ và nội chiến. Kể từthập niên 1620, đất nước này đã sống trong chia cắt. Vì thế, việc tồn tại của"hai Việt Nam" ở nửa sau của thế kỷ 20 không phải là điều lạ thường.
Từ kinh đôHuế, Minh Mạng – con trai Gia Long – cai trị thực thể chính trị mới nàybằng bàn tay cứng rắn. Lý trí đến mức cực đoan và thông minh hiếm thấy, ông dồntrọn hai thập kỷ trị vì để kiến tạo một quốc gia hiện đại. Ông cai trị vớisự khắc nghiệt, không để bất cứ điều gì cản đường. Tương tự những nỗ lực xâydựng quốc gia mà các vua Xiêm và Miến thực hiện ở phía tây biên giới Việt,Minh Mạng tin rằng quyền lực tập trung dựa trên quản trị hành chính hợp lý sẽgiúp cai trị hiệu quả hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Các chínhsách hành chính của ông thúc đẩy sự thống nhất lãnh thổ, tập trung quyền lực, pháttriển kinh tế và đồng nhất về ý thức hệ. Hệ thống khoa cử được cải tổ để bảođảm tính minh bạch và chống lại những hệ lụy tiêu cực của nạn gia đình trịcùng nhiều thế kỷ phân quyền cát cứ. Thực tế, việc xây dựng một bộ máy dân sựnắm quyền chỉ huy quân đội – thay vì ngược lại – là ưu tiên của Minh Mạng và làđiều kiện cốt lõi để kiến tạo một nước Việt Nam mới.
Về kinh tế,hệ thống thuế do nhà nước quản lý, đánh trên dân cư và hoạt động thương mại,cung cấp nguồn tài chính để đầu tư vào các công trình hạ tầng lớn, nhập khẩuhàng hóa nước ngoài và trả lương cho bộ máy quan liêu ngày càng mở rộng. Việcmở rộng quyền kiểm soát hành chính xuống các tầng nấc thấp hơn cho phép huyđộng khối lượng lớn nhân công để xây dựng đê điều, đường sá và cầu cống mới. Dướithời Minh Mạng, triều Nguyễn cho xây dựng Quan lộ chạy từ Hà Nội đến Sài Gònnhằm giúp việc di chuyển quan lại và binh lính giữa hai miền hiệu quả hơn; đếnđầu thế kỷ 20, người Pháp cũng cho trải nhựa con đường này với mục đích tươngtự.
Minh Mạng cũngủng hộ việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Ông mạnh tay trấn áp nạn buôn lậu gạovà thuốc phiện, thay vào đó phát triển hoạt động thương mại do chính quyềnquản lý với Singapore, Trung Quốc và phương Tây. Triều Nguyễn cũng tổ chức cộngđồng thương nhân người Hoa thành các bang hội lớn để dễ kiểm soát và đánh thuế.
Những cảicách kinh tế và chính trị này cho thấy triều đại Minh Mạng ở đầu thế kỷ 19 xứngđáng được nhìn nhận nhiều hơn là chỉ một dòng chú thích trong lịch sử Việt Namcận đại. Điều đó không có nghĩa là ông đã hoàn thành mọi mục tiêu đặt ra, màthay vào đó cho thấy rằng tính hiện đại ở Việt Nam – cũng như ở bất kỳ nơi nàokhác – không phải là một hiện tượng tuyệt đối "có hoặc không," vàcũng không nhất thiết phải đến từ mối liên hệ thuộc địa với phương Tây.
Cũng cần lưuý rằng việc kiến tạo nước Việt Nam dưới thời Minh Mạng đã khởi phát một lànsóng chinh phục mang tính thuộc địa khác. Trong thập niên 1830, khi cải tổ bộmáy nhà nước, Minh Mạng đồng thời mở rộng lãnh thổ, sáp nhập toàn bộ Campuchiangày nay và một phần Lào. Nhưng rốt cuộc, vị hoàng đế này đã đi quá xa: khi tìmcách xóa bỏ vương quyền Campuchia, ông đã châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn vàkéo theo sự can thiệp quân sự của Xiêm.
Campuchia sauđó giành lại độc lập thông qua một thỏa thuận hòa bình do Xiêm và Việt Nam cùngthương lượng. Nói cách khác, hình dáng chữ S của Việt Nam thực sự chưa baogiờ là một tất yếu lịch sử. Cuối cùng, chính sự can thiệp của Xiêm – chứkhông phải của người Pháp – đã cứu Campuchia thoát khỏi sự thôn tính của ViệtNam vào thập niên 1840.
Khi ngườiPháp áp đặt quyền lực đế quốc của mình tại Việt Nam, họ đã xây dựng bộ máythuộc địa dựa trên nền tảng sẵn có của nhà nước Việt Nam. Thực vậy, Liên bangĐông Dương thuộc Pháp, được chính thức tuyên bố thành lập năm 1888, phản chiếumột cách lạ lùng ranh giới của "Đại Nam" dưới thời Minh Mạng củanhững năm 1830, bao gồm cả Campuchia và phần lớn Lào.
Dù hành trìnhgiành thống nhất và độc lập ở thế kỷ 20 là chìa khóa để lý giải lịch sử ViệtNam, nhưng nó thường bỏ qua sự thật rằng chưa từng có một Việt Nam duy nhất, mànhiều Việt Nam với những diện mạo rất khác biệt. Trong 80 năm dưới ách cai trịcủa Pháp, người Việt quả thực chịu nhiều đau khổ, nhưng họ không phải lúc nàocũng chỉ là nạn nhân của sự đô hộ. Bởi chính họ cũng từng là những kẻ đi chinhphục.
Các tườngthuật chuẩn mực về quan hệ Việt-Trung thường mô tả đó là một lịch sử liên tụcchống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Đây là một câu chuyện hấp dẫn đối vớinhững người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, bởi nó khơi gợi một truyền thốngkháng cự bất tận trước ngoại xâm – không chỉ trong các cuộc chiến chống Pháp vàMỹ giữa thế kỷ 20, mà cả trong xung đột biên giới với Trung Quốc những năm 1980và các căng thẳng trên Biển Đông hiện nay. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy,những câu chuyện "chống Trung Quốc" này đã đơn giản hóa thựctế.
Thay vào đó,cần nhìn nhận rằng Việt Nam – cũng như Triều Tiên và thậm chí Nhật Bản – nằmtrong một vị trí đặc thù: từng là một phần của, và luôn phải đối diện với, đếchế khổng lồ mà Trung Hoa đã tạo dựng từ thời Hán (206 TCN – 220 CN). Giốngnhư người Frank và người German (Giéc-manh) đối diện với đế chế La Mã cùngthời, người Việt đã vay mượn nhiều yếu tố từ Trung Quốc. Người Triều Tiên vàngười Nhật cũng từng làm như vậy ở những thời điểm khác nhau.
Tuy nhiên,điểm khác biệt là ở chỗ Đế chế La Mã đã sụp đổ vào thế kỷ 5, trong khi đếchế Trung Hoa thì vẫn luôn tồn tại cho đến nay. Họ luôn có khả năng tái lậpvà thậm chí mở rộng quyền lực của mình.
Người Việt,cũng như người Triều Tiên, vừa vay mượn từ Trung Hoa để xây dựng quốc gia vàvăn hóa riêng ở vùng ngoại vi đế chế, vừa phải luôn đề phòng nguy cơ bị kéongược trở lại trật tự cũ do Trung Quốc áp đặt. Điều này khiến người Việt luôntự thuyết phục rằng mình không phải là người Trung Hoa, dù vẫndựa vào những mô hình từ Trung Quốc, nhưng đồng thời tự xem mình như sứ giảcủa một nền văn minh "ưu việt" mà họ truyền bá xuống phương Namthông qua quá trình bành trướng thuộc địa của chính mình. Đó là một hành độngcân bằng độc đáo, khó khăn nhưng cũng đầy cuốn hút.
Người Pháp vàngười Đức không bao giờ phải lo La Mã quay trở lại để nghiền nát họ, hay chếgiễu việc họ vay mượn thể chế, thần thoại, ngôn ngữ La Mã, hoặc tự xưng là"Caesar mới" trong châu Âu hậu La Mã với các danh hiệu như Tsar, Czarvà Kaiser. Nhưng người Việt thì phải – và phải liên tục – đối mặt với điều này.
Ngày nay,những người cộng sản Việt Nam cũng rơi vào một tình huống tương tự. Họ đã vaymượn rất nhiều từ các mô hình và phương thức cộng sản Trung Quốc, từ cách tổchức quân sự, xây dựng nhà nước độc đảng, cho đến – kể từ sau cải cách kinh tếthập niên 1980 – việc điều chỉnh kinh tế thị trường nhằm duy trì sự cai trịchuyên chế của đảng cộng sản. Song lãnh đạo Việt Nam vẫn làm điều đó bất chấpbối cảnh giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đang tìm cách mở rộng đế chế củamình vượt ra ngoài phạm vi lục địa.
Mối quan hệlịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc – dù trong khuôn khổ cộng sản hay Nho giáo– đặt các nhà lãnh đạo Việt Nam vào tình thế vừa phải dựa vào mô hình TrungQuốc để duy trì quyền lực trong nước, vừa phải đối phó với sự bành trướng củađế chế Trung Hoa trên trường quốc tế. Thế cân bằng này càng trở nên khó khănkhi các lực lượng đối lập trong nước tìm cách làm suy giảm uy tín của đảng bằngviệc chỉ ra sự lệ thuộc vào mô hình Trung Quốc.
November 14, 2025
Hai bài viết của tác giả Tuệ Phong, một về Hà Nội và một về Nguyễn Huy Thiệp
Lời dẫn :
Quatrang Sơn Hoàng Vũ, tôi tìm thấy bài viết mang tên « Mặt trái của HàNội » của Tuệ Phong, mặc dầu không biết tác giả là ai, nhưng đọc thấy nhiều điều có thể chia sẻ. Sau đó đọc trang riêng của Tuệ Phong lại thấy cóbài viết riêng về truyện ngắn « Những người muôn năm cũ » của NguyễnHuy Thiệp. NHT đang nằm trong chủ đề tôi theo đuổi và muốn sưu tầm. Xin đăng lại cả haibài dưới đây.
---
MẶT TRÁI CỦA HÀ NỘI
“Tôi rất yêu Hà Nội, nhưng có những cái ở Hà Nội bây giờ thì không thếchấp nhận được".
*
Nói về văn hóa của người Hà Nội ngày nay cũng có nghĩa là bàn về việcngười ta đã có đủ văn hóa để làm người Hà Nội hay không. Nghe thì có vẻ khônglọt tai, nhưng với thời đại ngày nay thì quả đúng là như vậy.
Bấy lâu nay người ta hay nói đến cụm từ "Người Hà Nội", hoặcnhững người đang sống trên mảnh đất Hà Nội (nội thành) không ít người luôn tựnhận mình là người Hà Nội và lấy làm hãnh diện về điều đó.
Ở nước ngoài, nhiều người Việt khi được người bản xứ hỏi họ là người ởđâu, thì họ thường nhận ngay là "Người Hà Nội". Nhiều người coi HàNội là niềm tự hào, bởi phong thái của người Hà Nội thường có khác biệt hơn,lịch lãm và đáng yêu hơn, cho nên cái việc nhận là người Hà Nội cũng đồng nghĩalà đã nhận một nét văn hóa đẹp mà ai cũng mong muốn và lấy đó làm chuẩn mực chomình.
Nhưng bây giờ, với làn sóng nhập cư, người Hà Nội đã trở nên tạp nham,hổ lốn và làm hỏng đi hình ảnh của chính mình. Những người Hà Nội cũ bây giờgặp lại nhau hàn huyên hay nói chuyện về những cái ngày xưa của Hà Nội, nhưngđặc biệt, họ đều không thích nói đến chuyện người Hà Nội bây giờ, hay có thểnói, người ta đang bắt đầu cảm thấy ngượng nếu tự nhận mình là người Hà Nội nhưngày hôm nay.
Không chỉ không muốn nhận là người Hà Nội, nhiều người còn lên án cái HàNội đó, cái nơi mà họ đã sinh ra từ bao đời nay và luôn gìn giữ, tự hào về nó.Họ luôn ám ảnh và khó chịu từ phong cách sống, từ lời nói, việc làm đến nhâncách của những con người đang sống trên cái mảnh đất Hà Nội hôm nay.
Ngày trước, khi Hà Nội chưa đông dân, chưa có nhiều phương tiện giaothông, chưa có các tiện nghi hiện đại và chưa có cuộc cách mạng về di cư nhưbây giờ, thì "Người Hà Nội" ngày đó, với một nhịp sống chậm chạp, vàcon người ta còn có thể tự ngắm nhìn lại mình để biết mình có còn hào hoa,thanh nhã, lịch lãm và tự trọng nữa hay không.
Bây giờ thì khác, Hà Nội ngày nay đã khác xa ngày xưa. Chính điều đó đãlàm cho cái cổ kính của Hà Nội nó biến thái đi, và có thể nói, Hà Nội bây giờlà một cái gì đó nó không giống bất cứ một nơi nào trên thế giới.
Nói chung là loạn, nếu không muốn nói là hổ lốn và "lộn tùngphèo" như một cái nồi lẩu thập cẩm trên bàn nhậu.
Đó chính là cái Hà Nội hiện nay mà chúng ta đang sinh sống với những khutrung tâm quá nhiều nhà cửa, biệt thự và chung cư - cái đẹp đẽ khang trang lịchsự liền ngay bên cạnh là cái bẩn thỉu nhếch nhác và rác rưởi.
Đường phố đó đây chỗ nào và lúc nào cũng nham nhở như một bãi rác vàcông trường. Tiếng ồn của máy xây dựng, dây điện nhằng nhịt giăng trên cột điệnnhấp nhô với những chiếc loa truyền thanh công cộng đinh tai nhức óc.
Đó là một thành phố với hàng chục triệu cái xe máy các kiểu và các loạiô tô với một giao thông bát nháo không có nguyên tắc, luật lệ với một lượngkhói xe và khí thải ô nhiễm đứng vào hàng đầu thế giới, còn hơn cả thủ đô BắcKinh - Trung Quốc.
Cứ thử xem Hà Nội có lúc nào là đường không tắc?
Có lẽ là chỉ vào ban đêm. Cả ngày, từ sáng đến đêm lúc nào cũng chậtcứng và đông nghịt. Mỗi buổi sáng đi làm hay buổi chiều về bị tắc đường, conngười sẽ khổ cực như thế nào? Trong lúc tắc đường, ở những ngã tư ngã năm phảihít bụi và khói ô tô xe máy, xin lỗi nếu không bệnh tật thì cũng ung thư phổimà chết.
Hơn nữa, ở Hà Nội bây giờ, tầng lớp giàu nghèo phân hóa rõ rệt, ngườinghèo cứ ngày một nghèo xuống mãi, người giàu cứ ngày một giàu lên mãi. Họ giàucó không hẳn vì thông minh hơn, giỏi giang hơn…
Đó là một thành phố với các loại cửa hàng, từ thời trang đến tiệm bán đồăn, quán xá nhậu nhẹt và cầm đồ, gây ra một không khí hỗn loạn, nếu không muốnnói là khủng khiếp. Mở mắt ra là thấy lừa lọc, rượu chè nhậu nhẹt, hơn thế nữalà gái điếm, lô đề và cờ bạc...
Có thể nói bây giờ, chính những người Hà Nội gốc sinh sống ở nơi khác,khi được hỏi về Hà Nội, họ nhiều lúc còn không dám nhận mình là người Hà Nộinữa. Bởi những cảnh tượng khó coi và không thể chấp nhận được khi người tathường thấy ở trên đường, thí dụ như những cô gái đẹp ngồi trên xe ôtô sangtrọng mở cửa kính ra vứt rác xuống mặt đường, hay những cô mặc váy ngắn chândài môi tô son đỏ chót mà khạc nhổ trên xe khi đang chạy, để nước bọt bay theochiều gió tạt vào mặt kẻ đi sau...
Và còn rất nhiều những chuyện buồn cười vô học khác nữa.
Đó là những cái bình thường ở nơi khác không có, mà chỉ có ở Hà Nội, vànhững người tự cho mình là người Hà Nội mới làm những chuyện đó. Đó chính lànhững con người đang sinh sống ở một nơi có 1.000 năm lịch sử văn hóa, và là bộmặt của một đất nước.
Vậy định nghĩa thế nào là Hà Nội, và thế nào là một người Hà Nội?
Cái đó không quan trọng, cái quan trọng là ở dân trí, sự hiểu biết vàvăn hoá cốt cách của những người đang sống trên mảnh đất đó.
Tuệ Phong - 2024
Fanpage Hà Nội Tôi Yêu
-
Trích từ Sơn Hoàng Vũ
Sdeoontrspa14a78ú 04tugt7hf085mm7g36lau74ph4h096ht9411uachg2
Khi đưa lại bài này tác giả Sơn Hoàng Vũ có thêm một câu bình luận:
Nghe có buồn không!
---
NGUYỄN HUY THIỆP- NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ - MỘT VÀI ĐIỀU BIÊN
Nguồn: neosrSopdt80h24ggmá2iugm09ca7m1g7a73tgt294n75185 917m4 ghah0 · -(Bài viết đơnthuần suy nghĩ, không mang tính học thuật, mà chỉ nhằm tưởng niệm 75 năm ngày sinh cốnhà văn NHT 1950-2025)
-
Đọc Những người muôn năm cũ, ta như bước vàomột miền ký ức hoang vu, nơi những phận người bình dị sống lay lắt bên ngọn núiĐười Ươi, sống trong bóng tối, tăm tối cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Và hơn cả,tác phẩm là tiếng thở dài sâu kín của một con người đã đi qua những năm thángthanh xuân nơi miền rừng núi khỉ ho cò gáy ấy, trở về đối diện với những tàntích của ký ức và bâng khuâng hỏi: “Hồn ở đâu bây giờ...”
Câu thơ của VũĐình Liên đặt đầu truyện, là chìa khóa cho toàn bộ câu chuyện: “Những ngườimuôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ...” - những con người giản dị ấy, những con ngườinhư ông An, bà Hinh, như Doanh, như cậu thanh niên “tôi” những người từng hiệndiện trong ký ức, giờ chỉ còn là những bóng ma, những nấm mồ phủ cỏ, những người“muôn năm cũ” đúng nghĩa. Nhưng có lẽ cái “hồn” mà Nguyễn Huy Thiệp day dứt đitìm không chỉ là hồn của những con người thân quen năm nào mà còn là “hồn người”,là nhân tính, là giá trị sống giản dị mà chân thật của một thời đã xa, một thờingười ta còn biết yêu thương, biết gắn bó, biết phục vụ người khác bằng một thứlương thiện thật thà như bà Hinh, hay biết sống giản dị như ông An - người đisăn vụng về bắn không trúng con gì.
-
Tác phẩm đượckể qua cái nhìn của nhân vật “tôi” - một thầy giáo trẻ khi ấy 20 tuổi, ngây thơvà giàu lý tưởng. Nhưng khi trở về sau hơn ba mươi năm, người ấy nhận ra tất cảđã đổi khác: ông An và bà Hinh đã thành nấm mồ đá trên núi, Doanh hóa thành mộtông già nghiện ngập, tuyệt vọng trong bóng tối, chính mình cũng chỉ là “người sốngsót” quay lại để nhìn ký ức mục nát đi từng phần.
-
Cấu trúc truyệngiống một bài ký sự hơn là một câu chuyện hư cấu. Nguyễn Huy Thiệp không tạo dựngxung đột kịch tính hay sự kiện lớn lao, mà chậm rãi kể về cuộc sống, như cáchngười ta lần giở từng bức ảnh cũ. Cuộc sống trong xóm núi ấy hiện lên thật buồn:những bữa cơm đạm bạc, những buổi tối bên bếp lửa, những trận cháy rừng như tậnthế, những đêm mùa mưa lạnh buốt, cái nghèo, cái lạc hậu như lớp sương muốigiăng kín quanh đời sống con người.
-
Mỗi nhân vậtlà một mảnh số phận nhỏ, nhưng cũng là một ẩn dụ về cuộc đời như ông An - ngườilính chuyển ngành, cô độc và thô ráp, sống bằng thói quen săn bắn vụng về, làhình bóng một thế hệ lính trận cũ không thể hòa nhập mà cũng không thể bỏ đi(giống như ông Thuấn). Hay như bà Hinh - người đàn bà lam lũ, hiền hậu, bám víuvào tình mẹ với cô con gái Xuân như thứ ánh sáng cuối cùng của đời mình.
-
Hạnh phúc củabà giản dị, thậm chí ngây thơ. Cái chết của bà như là sự chấm dứt của một thứnhân hậu nguyên sơ. Rồi Doanh - người thầy giáo hoài nghi và tuyệt vọng. Lờinói của Doanh xuyên suốt truyện như một thứ triết lý đen tối: “Học hành chỉ là ảotưởng”, “Học vấn khiến người ta tưởng có thể thay đổi số phận”, nhưng rốt cuộccon người chỉ chuyển dịch từ “một hoàn cảnh thối tha này sang một hoàn cảnh thốitha khác”. Con người ấy từng khinh miệt tất cả - nhưng rồi chính hắn cũng tàn lụitrong nghiện ngập. Đó là một hình tượng triết lý cay nghiệt của Nguyễn Huy Thiệpvề thân phận trí thức trong một xã hội hỗn loạn, vô minh.
-
Cuối cùng là“tôi” - nhân vật kể chuyện - chính là người duy nhất mang trong mình niềm khátvọng thoát khỏi xó núi, người đã bước đi khỏi vùng đất tối ấy, nhưng rồi khiquay về, lại day dứt tự hỏi: liệu có thực mình đã thoát ra chưa? Hay cũng chỉlà một Doanh khác, nhưng biết che giấu hơn?
Dưới bàn tayNguyễn Huy Thiệp thì cảnh vật, con người đều nhuốm màu triết lý. Con đười ươitrên đỉnh núi như kẻ quan sát câm lặng, kẻ chửi bới ngạo nghễ nền giáo dục bằngnhững cử chỉ tục tĩu chính là một biểu tượng thâm sâu mà Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm.Nó chính là phần hoang dã, phần “bản năng gốc” trong mỗi con người, thứ mà mọilớp vỏ học vấn, đạo đức và tri thức đều không thể che lấp. Khi con người ngồitrên bục giảng, nói về ánh sáng tri thức, thì con đười ươi như một chiếc gươngđen phản chiếu sự hoang tàn ẩn giấu trong sâu thẳm họ. Phải chăng, con đười ươiấy là bản thể thật sự của nhân vật Doanh, của cả ông An, của chính “tôi”, và củachúng ta? Ngọn núi Đười Ươi nơi an nghỉ của ông An, bà Hinh cũng là nơi kếtthúc câu chuyện. Đó là đỉnh cao của cái chết. Một cái chết yên bình, đơn giảnnhưng đầy u uẩn. Người kể chuyện trở về, thắp một nén nhang, đứng giữa mùi cúcdại ngai ngái, ngơ ngác không biết mình đang tưởng niệm người khác hay chính cuộcđời mình.
Đọc xong truyện,cảm giác đọng lại không phải là bi thương hay phẫn nộ, mà là sự mệt mỏi và nỗibuồn âm thầm như sương muối trên ngọn cỏ. Cuộc đời ấy, con người ấy, những nămtháng ấy tất cả đều đã qua, hóa thành tro bụi, chỉ còn lại chút “hồn” lảng vảngtrong câu hỏi vô vọng: “Hồn ở đâu bây giờ…” Cũng giống như ánh sao cuối chân trờingày xưa, người kể chuyện đã đi về phía nó nhưng ngôi sao ấy vốn dĩ đã tắt từlâu, chỉ còn ánh sáng tàn vọng lại.
Phải chăng, điềukhiến con người bước tiếp, rời bỏ, hay quay về, đều là ánh sáng của những vìsao đã chết?
HàNội
2024
Sửalại 2025/7/19 tại Hà Nội
Nguyễn Tuân và mĩ học của hiến sinh nghệ thuật trong "Chùa Đàn"
Nguồn: Tino Cao
Sneorpdstocf9g8 2lờl2im531g26u693g29hfm0ic4g614187371lg4t89t ·
-
“Chùa Đàn” của Nguyễn Tuân không thể chỉ được đọc bằng lí trí. Nó phải được thụ cảm bằng trực giác như lắng nghe một bản nhạc hơn là giải mã một văn bản. Trong thế giới ấy, chữ nghĩa hóa thành âm thanh, câu văn ngân thành nhịp điệu và nhân vật xuất hiện như những nốt nhạc của tâm linh. “Chùa Đàn” không chỉ kể một câu chuyện ở ấp Mê Thảo mà mở ra một hành trình đi tìm cái đẹp tuyệt đối, nơi Nguyễn Tuân biến nghệ thuật thành cái đạo; và cái đẹp thì trở thành hình thức cao nhất của cứu rỗi.
Từ “Vang bóng một thời” đến “Chùa Đàn”, Nguyễn Tuân liên tục đẩy xa biên độ của một mĩ học duy mĩ. Nếu “Vang bóng một thời” là cộng hưởng của những mảnh hồi quang về một nền nếp đã lùi vào dĩ vãng, thì “Chùa Đàn” là kết tinh và cũng là đường biên cuối cùng của thế giới đó. Những phẩm chất từng hiện diện rời rạc trong các truyện ngắn trước đây của Nguyễn Tuân được triệu tập về một điểm: khí phách của “Huấn Cao”, cơn rùng mình man dại trong “Bữa tiệc máu”, nỗi u uất của “Chén trà trong sương sớm”, lớp âm khí của “Báo oán”. Tất cả được chuyển hóa thành một trường nhạc tính dày đặc, nơi câu chữ không mô tả âm nhạc mà tự nó thành âm nhạc.
Từ yêu cầu nhận thức, người đọc bị kéo sang một địa hạt khác: tiếp nhận tác phẩm như một nghi lễ với nhịp thở của tiếng phách và vòng xoáy của tiếng tơ.
Đầu tiên phải nói đến cái tên “Chùa Đàn”. Chùa này không thờ Bụt thờ Phật, không thờ thánh thờ thần, mà là thờ cây đàn - một biểu tượng cho nghệ thuật. Không phải là đền (đền thường thờ thánh hoặc những vị thần có quyền năng trấn giữ một địa phương hay có công trạng với dân chúng), vì đền không siêu thoát. Chùa là nơi vừa tôn nghiêm, vừa thoát trần. Nghệ thuật đỉnh cao trong tâm tưởng của Nguyễn Tuân vừa nghiêm cẩn lại vừa thoát tục. Bởi thế, cây đàn được thờ cũng là thứ không phải kẻ phàm phu tục tử nào cũng có thể chạm vào. Chỉ có người với cái tâm vô cầu vô dục cùng với một mĩ cảm biết trân trọng tuyệt đối cái đẹp mới có thể chạm đến và làm rung lên những thanh âm linh hiển. Bởi thế, nếu đem so sánh “Chùa Đàn” như một thánh đường thiêng liêng tôn thờ cái đẹp toàn bích thì đó cũng không phải là một diễn giải phi lí.
Ấp Mê Thảo cũng là một biểu tượng. Cái tên “Mê Thảo” khi đọc lên dễ gợi cho ta cảm giác liêu trai, khiến ta mường tượng đến một vùng thôn dã nửa thực nửa mê, một cõi hoang sơn dã lĩnh. Từ cậu chủ Lãnh Út và người dân ấp Mê Thảo đều muốn tránh xa nền văn minh công nghiệp và thù ghét mọi loại máy móc bởi những đau buồn luôn được gợi lại từ kí ức kinh hoàng về cái ngày Lãnh Út mất vợ. Mê Thảo trở thành một không gian sinh tồn có thể được ví von như là “đáy thời gian của đời sống trung cổ”.
Nguyễn Tuân kể rằng: “Ở đấy, giờ người ta sưởi cho tằm bằng than gỗ và tiết nóng nực có những đứa trẻ chuyên môn cầm quạt giấy phẩy phất cho tằm. Ông chủ ấy không mặc đồ len vải có chỉ máy khâu nữa. Ông đã mặc thứ vải chàm của thổ dân gần vùng dệt tay, giặt giũ bằng nhựa trái bồ hòn, đêm đọc sách bằng sức sáng của dầu ép. Lúc giải trí, đi săn cầy bắn chim thì ông chủ ấp thù văn minh cơ khí đó đã có một đàn chó dày lông, một cái nỏ và cái bẫy”.
Lãnh Út còn thường cho dân phu đi bứng các cây cổ thụ về để trồng trong ấp, góp phần tạo nên một bầu không khí u linh cô tịch. Đó là chưa kể những hố ủ rượu của Bá Nhỡ mà khi nhìn qua người ta có thể tưởng tượng rằng chúng là những tiểu sành chứa tro cốt người chết được chôn cất ở đấy. Ấp Mê Thảo là một thực tại tang thương và ma quái. Trong thực tại ấy, chỉ những người như Lãnh Út và Bá Nhỡ mới có thể thấu hiểu nhau và cảm thương nhau. Khi tả về ấp Mê Thảo, Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc bước vào một cuộc khám phá với cảm giác ghê rợn. Ta tưởng rằng những câu chuyện quái đản sẽ xảy ra ở cái ấp, nơi mà những hồn ma nào đó sẽ hiện về từ một vụ thảm sát tắm máu. Nhưng không, sự ghê rợn ấy chỉ kéo dài dai dẳng trong bóng tối, và chỉ có tình yêu với đàn hát của Bá Nhỡ, Cô Tơ và Lãnh Út mới là điểm sáng lấp loáng nơi đây. Ấp Mê Thảo chính là thứ thực tại biểu lộ tâm trí của một kẻ chán chường bởi những đau thương không thể xoa dịu.
Nhà tù lại giống như một chốn khổ tu luyện ngục. Không phải những nhà tù đau khổ trong “Bá tước Monte Cristo” của Alexandre Dumas hay “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, nhà tù trong “Chùa Đàn” là nơi mà Lãnh Út hóa thân thành nhân vật Lịnh với lối sống thanh bạch, vừa để hối lỗi, vừa để luyện tâm. Trong cuộc khổ tu ấy, sự tiếc nhớ đàn ca vẫn trỗi dậy khi anh nghe tiếng gió va chạm nhau, khi có người chèo kéo anh thưởng thức một chầu hát. Lí tưởng trong sự khổ luyện dường như cũng không đè nén nổi cõi lòng đắm đuối của anh vì cái đẹp. Anh có thể khước từ mọi thú vui trong cuộc khổ tu ấy, nhưng nhạc cảm thì vẫn luôn được gợi lên trong lòng anh mỗi khi nghe văng vẳng đâu đó một thanh âm sinh tử tử sinh.
Nếu Lịnh gợi cho ta nhớ đến những chàng thư sinh nhạy cảm, thấu hiểu được vẻ đẹp của nghệ thuật, của thiên nhiên, sống với những chuẩn mực lí tưởng, thì Bá Nhỡ và Cô Tơ là đại diện cho người nghệ sĩ chính trực luôn hết mình vì nghệ thuật. Bá Nhỡ vì trốn cái bản án giết người mà chạy lên ấp Mê Thảo, một lòng chăm lo cho Lãnh Út trong những ngày bi thương. Bá Nhỡ đến với cây đàn ma không phải chỉ để một lòng cứu Lãnh Út ra khỏi vũng lầy đau khổ mà còn vì thực sự muốn được tự mình gẫy lên khúc nhạc hoàn mĩ cho xứng tầm với cây đàn của một thầy đàn cự phách.
Bá Nhỡ là một kẻ không chút sợ hãi khi đối diện với cái chết, sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để chiếm lĩnh đỉnh cao của sơn lâm nghệ thuật. Đó không phải là người nghệ sĩ đích thực sao? Cô Tơ lúc nào cũng mang trong lòng nỗi nhớ nhung quay quắt với nghề, tâm hồn luôn rung động bởi âm nhạc và vì cảm nhận cái chết đang đến dần với Bá Nhỡ mà cất lên tiếng hát. Đó chẳng phải là người nghệ sĩ đích thực sao?
Chầu hát hôm ấy đã đạt đến tính nghi lễ thiêng liêng nơi thánh đường nghệ thuật “Chùa Đàn”, được Nguyễn Tuân kể lại rằng:
“Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó là một nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm tức sinh lí của một sự giao hoan lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều đứt chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cữ cuối thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tủy. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành. Nó là cái lê thê của nấm vô danh hưu hưu ngọn vàng so le. Nó là cái oan uổng nghìn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khốn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím. Nó là một chuyện vướng vít nửa vời.
Tiếng đôi lá con cỗ phách Cô Tơ dồn như tiếng chim kêu thương trên dậm cát nổi bão lốc. Nhiều tiếng tay ba ngừng gục xuống bàn phách, nghe tàn rợn như tiếng con cắt lao mạnh xuống thềm đá sau một phát tên. Tay phách không một tiếng nào là nhụt. Mỗi tiếng phách sắc như một nét đao thuận chiều. Và gõ đến thế thì thật là đem cái vinh quang đến cho tre cho trúc và tạo cho thảo mộc một tấm linh hồn. Dưới mười ngón tay hoa múa dẻo quánh, tre trúc bật nẩy lên vì thỏa thích. Đàn và hát dắt nhau mà lướt bổng. Cậu Lãnh Út mềm tay roi, càng mê tơi đi vì tơ trúc ríu ran. Chưa hồi tỉnh cuộc rượu của ấp, cậu lại tự bồi thêm trận rượu của đêm nhạc”.
Có thể nói đoạn miêu tả của Nguyễn Tuân tựa như một cuộc giao hoan chữ nghĩa đạt đến khoái cảm tột độ. Tôi hình dung khi viết xong con chữ cuối cùng của “Chùa Đàn”, Nguyễn Tuân vứt ngay bút, nằm vật thiêm thiếp. Nhà văn lúc này như chính nhân vật Bá Nhỡ của mình, chỉ là không đến nỗi hồn lìa khỏi xác đợi lên cáng để người ta khiêng về với ấp Mê Thảo. Nguyễn Tuân để cho Bá Nhỡ gẫy khúc huyền cầm tuyệt hay, hay đến mức ứa cả máu, tưởng như ông đã dốc hết cả sinh lực cùng những khoái cảm kì lạ của mình để viết ra được ngần ấy những yêu ngôn.
Trong nghi lễ thiêng liêng của chầu đàn, ta cảm nhận được mùi trầm hương phảng phất sự hiến tế - một cuộc hiến sinh cho âm nhạc, cho cái đẹp, bằng tấc lòng đeo đuổi sự toàn hảo mà không chút tham luyến. Một chầu nhạc dù tuyệt mĩ có thể kết thúc không để lại chút dấu vết nào, thế nhưng ai cũng hết mình cho cái khoảnh khắc đẹp đẽ mà hư vô ấy. Thậm chí Bá Nhỡ còn sẵn sàng chấp nhận kết liễu sinh mệnh của mình để đổi lấy nó.
Tại sao?
Những kẻ thường dân ở ấp Mê Thảo sẽ không thể hiểu được điều này. Người đời phàm phu tục tử khó có thể hiểu được điều này. Chỉ có ai nuôi cái chí vượt lên khỏi những tầm thường của đời sống vật chất, ngưỡng cầu sự cao cả của tinh thần thì mới hiểu được lẽ ấy. Họ nhận thức được rằng cái xác phàm không quan trọng bằng sự siêu tuyệt của tinh thần. Trong cuộc hiến tế của nghi lễ âm nhạc, Bá Nhỡ đã tử vì đạo, đã sở đắc được đạo của cái đẹp, đạo của nghệ thuật.
Cấu trúc truyện lồng truyện cho phép Nguyễn Tuân dựng nên hai bình diện thực tại. Khung ngoài là nhà tù, nơi người kể xưng tôi gặp Lịnh. Khung trong là bản ghi chép mang tên “Tâm sự của nước độc”. Từ đó mở ra ấp Mê Thảo, không gian của cậu chủ Lãnh Út và của cặp tri âm Bá Nhỡ - Cô Tơ. Việc đặt nhà tù bên ngoài làm khung không phải chỉ là phương tiện kể chuyện. Nó là một khẳng định kín đáo rằng thân xác có thể bị giam cầm, nhưng cõi mê của nghệ thuật tạo nên một thứ tự do khác. Ở tầng nấc sâu hơn, hai lớp thực tại này còn biểu đạt một đối lập căn bản trong mĩ học Nguyễn Tuân. Bên ngoài là trật tự cưỡng bách của đời sống xã hội. Bên trong là cái đạo nghệ thuật, nơi quy luật duy nhất là sự tận hiến.
Ấp Mê Thảo có tính chất địa lí của một nơi chốn nhưng còn có nghĩa biểu tượng của một tâm địa. Cái tên đã gợi cảm giác nhập nhòa giữa tỉnh và mê. Con người ở đó chủ động khước từ văn minh cơ khí. Họ mặc vải chàm, đọc sách bằng đèn dầu, giặt giũ bằng nhựa bồ hòn, ủ rượu trong những chiếc hố gợi liên tưởng mộ phần. Sự sắp đặt ấy không nhằm tả sinh hoạt nông thôn như một hiện thực xã hội học. Nó là một lựa chọn thẩm mĩ mang tính đối lập. Vùng đất này cố ý quay lưng với tốc độ thời đại, vì ở tốc độ đó cái đẹp sẽ bị tiêu hao. Nguyễn Tuân dựng lại một môi trường cổ điển để bảo toàn độ tinh khiết của cảm giác. Một tầng nghĩa khác cũng hiện lên. Mê Thảo là suy tưởng nội tâm của nhân vật. Nó là sa mạc nơi người ta chấp nhận cơn khát đốt cháy để tìm ra nguồn nước của cái tuyệt đối.
“Chùa Đàn” là nhan đề mang năng lực khái quát đặc biệt. Chùa là nơi tu tâm và là biểu tượng cho sự thanh lọc. Đàn là âm nhạc và rộng hơn là nghệ thuật. Khi đặt hai từ bên cạnh nhau, Nguyễn Tuân không chỉ đặt một nhạc cụ lên bệ thờ. Ông xây dựng một thiết chế tinh thần, nơi nghệ thuật được tôn nghiêm như tôn giáo. Cây đàn không phải đồ vật. Nó là linh vật. Người gảy đàn không chỉ biểu diễn. Họ hành lễ. Quan niệm này làm đổi vị thế của toàn bộ truyện. Những sự kiện trong đêm chầu đàn không còn là một cuộc vui hay một buổi giải khuây. Đó là một nghi thức có tính hiến sinh, nơi cái đẹp đòi hỏi một cái giá tương xứng.
Nhân vật vì thế cũng mang ý nghĩa hơn chính họ. Lãnh Út là thân phận bị chấn thương vì mất mát riêng tư, nhưng phần sâu hơn, ông là kẻ sùng mộ cái đẹp đến mức dựng cả một cộng đồng sống theo tiếng gọi của nó. Bá Nhỡ là người quản gia nhưng là nghệ sĩ đích thực. Ông sống vì âm thanh và chấp nhận chết vì âm thanh. Cô Tơ vừa là người đàn bà yêu nghề hát vừa là hiện thân của giọng nữ trong một vũ trụ vốn do nam giới kiến tạo. Ở tiếng phách của cô có sự dồn nén của dục tính, có vệt nước mắt của cảm thương và có sức mạnh nâng âm giai lên khoảnh khắc bùng nổ cuối cùng. Tính nữ ở đây trở thành nguồn năng lượng cộng hưởng, khiến mĩ học của sự hiến sinh thấm đẫm hơi ấm nhân tính và tránh được ranh giới của khoái cảm tàn bạo. Ba con người ấy gặp nhau trong một đêm và làm nên hiện tượng mà ngôn ngữ thông thường khó miêu tả. Nguyễn Tuân chọn một lối viết giàu ẩn dụ, liên tục chồng hình ảnh lên nhau để cho con chữ vừa tròn vừa nhọn, vừa mềm vừa sắc, như mô phỏng chính sự chuyển hóa của âm.
Trong đoạn miêu tả chầu đàn, Nguyễn Tuân sử dụng một cú pháp dồn dập, nơi mỗi mệnh đề như một nhát gõ đẩy cường độ cảm xúc lên cao. Âm nhạc được kiến tạo không bằng tiết tấu mà bằng chuỗi liên tưởng cảm giác. Âm thanh được ví với gió không lọt kẽ mành, với cơn tật phong thấp trở lại, với lá lìa cành, với dư ba của buổi chiều, với tiếng con cắt lao xuống thềm đá. Sự chuyển hoán cảm giác ấy chính là hiện tượng giao cảm, khi thính giác mượn hình ảnh của xúc giác và thị giác để mở rộng biên độ tri giác. Người đọc, khi theo dõi chuỗi mô tả đó, không còn ở vị thế khán giả mà trở thành kẻ trực tiếp chứng nghiệm cơn chấn động. Nguyễn Tuân đã làm điều hiếm thấy trong văn xuôi: ông tạo ra một bản nhạc bằng chữ, không cần đến bất kì kí hiệu âm học nào.
Hiến sinh là trọng tâm triết học của tác phẩm. Bá Nhỡ chết không vì tai nạn và cũng không vì nợ nần luân lí. Ông chết như hệ quả tất yếu của một nghi lễ đạt đến đỉnh điểm. Ở đỉnh đó thân xác không còn đủ để chứa đựng năng lượng của cái đẹp. Cái chết vì vậy không chỉ là sự chấm dứt sinh học mà là một hình thức chuyển hóa. Nguyễn Tuân đã đẩy mĩ học duy mĩ của mình đến giới hạn cuối cùng. Nghệ thuật không chỉ là cứu rỗi. Nó còn là độc dược. Chữ nước độc trong nhan đề bản ghi chép là một ẩn dụ kép. Về bề mặt, nó chỉ rượu. Về bản chất, nó chỉ nghệ thuật. Cả hai đều gây say. Cả hai đều có thể giết người. Nhưng con người vẫn đi tới chúng vì trong cái chết được truyền thụ một ý nghĩa vượt trội so với đời sống thường nhật.
Nhìn từ lí thuyết tự sự, “Chùa Đàn” là văn bản có độ phức tạp của điểm nhìn. Người kể ở khung ngoài giữ khoảng cách và tiết chế. Người kể ở khung trong chìm vào mê sảng. Sự phân mảnh điểm nhìn làm tăng độ đáng tin cho vùng mê. Nó mở một cánh cửa để người đọc nhập vai người thẩm âm. Văn bản vì vậy vừa xa vừa gần. Có khoảng cách của triết lí nhưng cũng có sự ít nhiều thân mật của cơn say chung cuộc. Khi khép lại bản ghi, người kể trở về nhà tù. Khung ngoài đóng lại. Nhưng tác phẩm không kết thúc trong im lặng của ngục tối. Nó vẫn còn dư âm. Đây là thủ pháp dừng ở một nốt mở, cho phép văn bản tiếp tục tồn tại sau trang viết. Nói khác đi, tác phẩm hoàn tất như âm nhạc. Nó kết thúc ở chỗ âm tiếp tục ngân.
Một lớp đọc khác cần nhắc tới là quan hệ giữa mĩ học duy mĩ và lịch sử cụ thể của Việt Nam nửa đầu thế kỉ hai mươi. Sau năm 1945, quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật phải nhường chỗ cho yêu cầu gắn bó với đời sống người dân và nhiệm vụ chính trị. Sự xuất hiện của hai phần Dựng và Mưỡu cho thấy một biến chuyển không chỉ ở bút pháp mà ở chiến lược sinh tồn. Nguyễn Tuân đã tự trang bị một lớp vỏ chú thích thời thế cho tác phẩm vốn đặt cái đẹp lên trên mọi ràng buộc đạo đức. Có thể thấy một nỗi đau kín đáo ở đây. Tác giả hiểu cái giá của sự thẳng thắn triệt để. Ông chọn cách để tác phẩm được sống và chấp nhận một số thỏa hiệp. Phán xét ông ở vị thế đạo đức thuần khiết là một cách đọc phi lịch sử. Công bằng hơn là nhìn vào thủ pháp phân tầng của văn bản. Ở lớp mặt, tác phẩm mang lớp áo thời thế. Ở lớp sâu, nó vẫn là bản kinh của đạo nghệ thuật.
Vấn đề giới hạn của nhà văn cũng hiện ra trong chính nhận thức của người viết. Nguyễn Tuân không che giấu nỗi sợ. Ông không phải Bá Nhỡ. Ông không đi đến cùng một cái chết đẹp. Nhưng ông làm được điều khác. Ông biến cái bất khả của mình thành hình tượng nghệ thuật. Tác giả đặt cái dũng ở nhân vật để nâng một chuẩn mực mà chính ông biết mình khó đạt tới. Đó là cách tự thú bằng sáng tạo. Sự trung thực này làm tăng trọng lượng của tác phẩm. Nó khiến người đọc không thể nhìn “Chùa Đàn” như một ảo tưởng thuần túy. Đây là thứ văn chương vừa ngây thơ theo nghĩa tin tuyệt đối vào cái đẹp, vừa tỉnh táo theo nghĩa ý thức đầy đủ về bi kịch của người nghệ sĩ trong một thời đoạn lịch sử.
Về phương diện ngôn ngữ, Chùa Đàn là một trong những cột mốc đã đẩy văn xuôi Việt Nam tới vùng cực của tính nhạc. Trong nhiều trang, cú pháp được điều khiển bằng nhịp thở, bằng tiết tấu nội tại hơn là bằng logic sự kiện. Những chuỗi so sánh liên tiếp khiến câu văn tích điện. Nhiệt độ câu chữ tăng dần đến mức bùng nổ, sau đó hạ thấp trong một quãng lặng. Đây là lối tổ chức giống như một bản tấu có phần phát triển chủ đề rồi quay về chủ âm ở đoạn kết. Việc chuyển các giác quan qua lại, đồng nhất hơi thở, mồ hôi, gió, lá, sóng vào trong một trường liên tưởng duy nhất, là lối viết khó. Nó đòi hỏi sự kiểm soát của tai nghe nội tâm. Nguyễn Tuân ở giai đoạn này làm chủ được tai nghe ấy. Ông vừa cho chữ nghĩa tự do, vừa giữ nó trong kỉ luật của một nhạc trưởng.
Một điểm đáng chú ý khác là chức năng của tính nữ trong mĩ học hiến sinh của tác phẩm. Cô Tơ không phải nhân vật phụ thuộc. Giọng phách của cô tạo nên độ căng cần thiết để tiếng đàn đạt đỉnh. Ở đây hiện lên quan niệm về sáng tạo như là sự giao cảm giữa các lực khác nhau. Tính nữ không chỉ là dịu êm. Nó là nhịp thúc, là nhát chẻ không khoan nhượng, là tiếng gọi của bản năng làm sống dậy phần bản thể bị kìm nén. Khi kết hợp với tiếng đàn của Bá Nhỡ, giọng phách ấy đưa nghi lễ đến hoàn tất. Hai yếu tố nam và nữ vì thế không triệt tiêu lẫn nhau mà cùng nhau làm nên cấu trúc của hiến tế thẩm mĩ.
Không gian rượu là một trung giới quan trọng, là không gian của giữa sinh và tử, giữa ý thức và vô thức. Rượu vừa là phương tiện mở cửa các cảm giác vừa là biểu tượng của độc dược. Người đọc sẽ thấy trong nhiều đoạn, rượu và âm nhạc được gọi bằng cùng một cái tên “nước độc”. Cả hai minh hoạ cho một nguyên tắc duy mĩ. Rằng mọi phương tiện dẫn đến cái tuyệt đối đều có mặt trái. Nhưng nguy cơ không phải lí do để rút lui. Kẻ biết uống rượu là kẻ biết giới hạn. Kẻ dấn thân vào nghệ thuật cũng vậy. Họ chỉ có thể thành tựu khi biết đi đến sát mép vực, đồng thời vẫn còn một khoảnh tỉnh để điều khiển bước chân. Bá Nhỡ đi quá ranh giới vì nghi lễ đòi hỏi một vật tế. Lãnh Út đứng bên kia biên giới vì ông còn nhiệm vụ đối diện với đời sống sau nghi lễ. Hai vị trí ấy tạo thành cặp thế năng của truyện. Một người hóa thân vào âm thanh. Một người trở về để lưu giữ kí ức của nghi lễ.
Nhà tù, khung ngoài của truyện, là nơi nhắc ta rằng nghi lễ đẹp nhất không xóa được hiện thực. Người kể xưng tôi và nhân vật Lịnh cùng bị giam cầm. Nhưng chính ở nơi ấy, câu chuyện về cõi mê được kể lại. Điều này đặt ra một tương phản đáng suy nghĩ. Tự do tinh thần có thể được khơi dậy trong điều kiện bị tước đoạt tự do thân thể. Vẻ đẹp có thể được kể lại trong một không gian khắc nghiệt. Cái đẹp trong quan niệm của Nguyễn Tuân vì thế không tách rời khỏi đời sống. Nó không làm dáng xa xỉ. Nó là một phương tiện giữ phẩm giá của con người.
Từ đây có thể tiến tới một kết luận về hệ mĩ học mà “Chùa Đàn” đại diện. Nghệ thuật là một đạo. Đạo ấy đòi hỏi tu luyện, đòi hỏi tiết chế, đòi hỏi năng lực dâng hiến. Đỉnh cao của đạo là khoảnh khắc xuất thần. Trong khoảnh khắc ấy, cái tôi tan rã, thân xác nhòa đi, chỉ còn ánh hồi quang và vọng âm của kí ức. Nhưng đạo cũng đòi hỏi một trí tuệ để biết cách quay về. Tác phẩm vì vậy không kêu gọi những cái chết đồng loạt của nghệ sĩ. Nó mời gọi một ý thức kép. Biết đi đến tận cùng. Biết sống tiếp để kể lại. Lãnh Út viết “Tâm sự của nước độc” như một cách chuộc nợ. Người kể lưu truyền bản ghi như một cách của chứng tín. Người đọc khám phá văn bản như một người hành hương trở lại chùa đàn để xác lập lại lời thề với cái đẹp.
Trong dòng chảy văn học Việt Nam thế kỉ hai mươi, “Chùa Đàn” hiện lên như một bản kinh của đạo nghệ thuật. Chữ “kinh” ở đây không chỉ mang nghĩa kinh sách mà còn gợi một bản nhạc có thể được cất lên vô tận, mỗi lần vang lại mở ra một tầng cảm nghiệm mới. Đọc “Chùa Đàn” là lắng nghe một chầu nhạc vang lên trong im lặng, nơi người đọc cảm nhận dư ba còn lại của cái đẹp tuyệt đối. Dù thời thế biến đổi, dù văn chương của Nguyễn Tuân về sau có lúc từng bị kéo gần đến chức năng tuyên truyền, âm vang của ngôi chùa đàn ấy vẫn tồn tại. Chính điều đó lí giải vì sao tác phẩm vẫn sống trong kí ức người đọc. Nó gửi lại cho ta một quan niệm hiếm hoi: cái đẹp không phải là món trang sức phù phiếm mà là một thứ phẩm hạnh tinh thần, một kinh nghiệm chạm đến giới hạn cuối cùng của kiếp người, đồng thời cũng là một hình thức hiến sinh mang ý nghĩa sâu xa.
Nói như Khái Hưng, “đoản thiên ấy tuy chỉ là một đoản thiên, nhưng cũng an ủi làng văn chúng ta đôi chút”. Sự an ủi ấy đến từ chỗ ta vẫn có thể đặt tay lên một văn bản nơi con người còn tin rằng nghệ thuật xứng đáng để sống và xứng đáng để chết. Khi khép lại trang cuối “Chùa Đàn”, người đọc như dừng lại trước một khoảng lặng trong trẻo mà sâu thẳm. Trong sự lặng im ấy, dư ba của tiếng đàn vẫn ngân dài trong nội tâm như âm thanh không tắt của cái đẹp từng được chạm đến rồi tan vào hư không. Ở nơi đó, Nguyễn Tuân dường như vẫn ngồi bên cây đàn cổ, ung dung mà cô độc, gảy tiếp bản nhạc của riêng mình, chẳng biết đời sau còn ai nghe, nhưng vẫn gảy, như muốn gìn giữ trong chính tiếng đàn ấy một lời thề với nghệ thuật. Bởi với ông, cái đẹp không phải khoảnh khắc để chiêm ngưỡng mà là một đạo phải được phụng sự đến tận cùng.
— Tino, mùa lễ Tạ Ơn 2020
November 10, 2025
Quá trình chuyển biến của một phong cách -- Phan Ngọc viết về Nguyễn Tuân
- Tất cả văn bản dưới đây là VTN tôi bệ nguyên si từ một trang fb của Lại Nguyên Ân mà tôi quên ghi ngày tháng -
Nhân một năm ngày mất nhà văn Nguyễn Tuân
● Phan Ngọc
---
Tôi thích Nguyễn Tuân từ ngày đọc Chữ người tử tù. Tôi yêu lối văn như khắc của anh mà các nhà văn Tự lực vănđoàn không viết được. Tôi tập viết theo lối văn ấy trong bài Người bạn mùa hè đăng trên báo Bạn đường số mùa hè năm 1942 với bút danh Ngọc Phan. Dĩ nhiên mộtcậu bé 15 - 16 tuổi chỉ có thể viết kiểu kỹ thuật về mấy chú chuồn chuồn chúhay đuổi bắt các buổi trưa hè.
Tôi gặp anh lần đầu năm 1951 khi làm việc ở HộiVăn nghệ mà anh là Tổng thư ký. Quen sống lặng lẽ, tôi ở đấy 6 tháng không traođổi với anh một lời. Sau khi dịch quyển Sử ký của Tư Mã Thiên tôi được hân hạnhanh nhắc đến bản dịch, một bạn sinh viên có cho tôi biết ý kiến anh để chữa mộtchỗ trong chú thích và có bảo tôi đến gặp anh. Nhưng tôi tìm cớ thoái thác vàmặc dầu sống gần anh, tôi chưa bao giờ trò chuyện với anh cả. Bởi vì lúc đó,năm 1957, tôi đã nghĩ đến việc viết một quyển sách về phong cách Nguyễn Tuân vàtôi chỉ đến yết kiến anh sau khi viết xong sách. Tôi trù tính chỉ mất 6 thángnếu có tiền thuê người chép phích. Còn trước đó, tôi không muốn gặp để cho việcbênh vực một phong cách được khách quan. Cuộc sống vật chất cứ kéo tôi đi,không sao làm được công việc mà tôi thèm khát. Ý tôi chỉ muốn tỏ lòng biết ơnanh trước khi anh mất. Ngày kỷ niệm anh đến gần, lần lữa mãi hóa ra bội bạc.Tôi đành viết vội một chương chưa được kiểm tra bằng số lượng. Mong hương hồnanh tha thứ những điều sơ suất.
Vì muốn tập viết theo văn anh, tôiđã mất công tìm hiểu xem ai đứng sau anh. Hỏi nhà văn thường vô ích vì họthường không thừa nhận. Tôi biết sau Nhất Linh là André Gide, sau Nguyễn CôngHoan là Alphonse Daudet về truyện ngắn, sau Vũ Trọng Phụng là George Anquetil…Kinh nghiệm cho tôi biết, khi đã biết con người đứng sau thì tôi đoán trướcđược phần lớn những điều sẽ gặp.
Xét về câu văn chải chuốt, vị trí của đồ vậtvà sắc thái hoài cổ, cái vẻ cô độc của nhân vật chính, anh khá gần Hướng Minh.Nhưng đọc Hướng Minh tôi thấy ngay được Anatole France, còn đọc anh tôi chịu.Câu văn anh vừa rất quy tắc vừa tìm mọi cách phá quy tắc.
Thái độ khinh bạc ấy không phải củaHồ Xuân Hương, Yên Đổ, Tú Xương, cũng không phải của Tản Đà. Tìm ở châu Âu cũngkhông ra gốc gác.
Đọc Nguyễn không ai biết trước câusau sẽ nói gì. Chữ tùy bút mà anh là ông thầy số một hình như sinh ra để đónđợi anh. Sức thu hút có thể gọi là ma quái của văn anh một phần vì thế. Nhưngcũng có lẽ vì thế mà anh chưa bao giờ là nhà văn của đại chúng.
Xưa cũng như nay, anh chỉ là nhà văn của bạnđọc khó tính. Anh chỉ là tác giả của những bạn đọc có thói quen lao động tríóc, tìm thấy ngay ở đó một nguồn vui. Nhưng mặt khác, anh tự kiếm cho mình mộtchỗ đứng riêng trong lòng bạn đọc và có người mê văn anh trong đó có một số nhàngôn ngữ học.
Với Vang bóng một thời cái gì cũngcổ. Cốt truyện, đề tài, nhân vật, ngay cả câu văn đều mang dáng dấp cổ: −"mà bạch cụ, chúng tôi không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy lạitụ" (Những chiếc ấm đất). Song tính chất cổ ở đây chỉ là nhất thời, do yêucầu của chủ đề, để chiều theo thị hiếu của cái thời của Bút nghiên, Lều chõng.
Muốn tìm cống hiến của nghệ thuật anh, phảitìm cái bất biến.
Trung tâm bài viết là một đồ vật. Có thể nói không quá đáng, đồ vật bao giờ cũng thu hút anhsuốt một cuộc đời văn học ngót sáu chục năm trời. Anh không giấu giếm gì chuyệnđó mà thường đưa ngay lên đầu bài.
Đồ vật ấy phải là một vật có giá trịvà tác phẩm dựng lên là để khẳng định giá trị của nó.
Giá trị ấy được biểu hiện qua những tâmtrạng thường trái ngược nhau. Con người được dựng lên ở đây không phải là vìchính họ mà vì đồ vật, bởi vì chỉ có những con người ấy mới hiểu được giá trịcủa đồ vật. Rồi sau đó mới đến cốt truyện.
Cốt truyện ở các nhà văn khác làchính, nhưng ở anh lại là phương tiện để đưa bạn đọc đến gặp đồ vật thông quanhững tâm trạng.
Trước cách mạng, vật này là một vậtđẹp, hơi kỳ cục, còn con người là những kẻ bơ vơ lạc lõng trong việc chạy theomột cái đẹp chỉ mình họ biết được, chẳng ích lợi gì cho ai, mong manh và nhấtđịnh sẽ tàn lụi.
Họ là những kẻ nửa tỉnh nửa mê trongmột thế giới được tạo nên bởi một ngòi bút, từng chữ một thì rạch ròi, sắc sảonhư khắc vào đá, nhưng lại quần tụ trong một kiến trúc bập bềnh, chơi vơi.
Nói đến đồ vật là chuyện thường. Chúý đến cái đẹp của đồ vật cũng không mới. Nhưng trước Nguyễn, cái đẹp chỉ mớiđược nhìn ở khía cạnh thưởng thức.
Các nhà văn trước anh chỉ nói nó đẹpnhư thế nào. Một thí dụ quen thuộc là tiếng đàn của Kiều.
Trước Nguyễn, đồ vật bao giờ cũng làphương tiện.
Với Nguyễn, lần đầu tiên nó thànhcứu cánh và mỗi con người dù địa vị khác nhau đến đâu, từ anh ăn mày đến ôngquan cũng đều đúc theo một khuôn. Đó là những dân bất đắc chí, ăn gửi nằm nhờ ởthế giới này.
Nhưng dù thất bại trong thực tế họ vẫn khôngchấp nhận thất bại vì họ cho chỉ có mình họ mới tạo ra được cái đẹp, chỉ riênghọ mới nâng được những việc làm bình thường nhất như uống trà, ăn kẹo, đánh cờ…lên mức hoàn hảo.
Nguyễn là người đầu tiên nêu lên cáiđẹp ở khía cạnh kỹ thuật.
Tiếng nói mới của anh mà hầu như không ai đểý, đó là anh nhìn cái đẹp với con mắtcủa thời đại kỹ thuật.
Anh ra sức tìm hiểu chữ tại sao, đivào kỹ thuật tạo ra cái đẹp. Mãi sau này tôi mới hiểu tại sao tôi không thấy aisau lưng anh. Tuy anh đọc rất nhiều và nhớ nhiều nhưng không theo ai cả. Nếuanh sinh là người Nhật, người Đức hay người Mỹ thì tôi tìm được cơ sở giảithích ngay. Đằng này, anh sinh ở một nước nông nghiệp, xuất thân từ gia đìnhNho học, thế mới lạ. Anh là tổ sư một môn phái, cho đến nay ở Việt Nam chưa cómôn đệ. Một trường phái sẽ ra đời ở Pháp với cái tên ầm ĩ là "tiểu thuyếtmới" có nhiều điểm giống phong cách anh, nhưng chỉ là ngẫu nhiên.
Thực tình, anh Nguyễn lên đường một mình vàmột mình đi suốt non sáu mươi năm lữ khách. Nhiều người viết được những câu vănđẹp nhưng chỉ có anh nắm được các bí quyết tạo nên cái đẹp của câu văn đơntiết.
Cho nên để thưởng thức Nguyễn Tuâncần có một sự giải mã bằng phong cách học.
Dĩ nhiên, cái nhìn kỹ thuật không tựnó ra đời được mà phải có một quá trình.
Bài Chữ người tử tù nói đến"cái tài viết chữ tốt" của ông Huấn Cao, nỗi thèm khát xin chữ đẹpcủa viên quản ngục, hai kẻ "chọn nhầm nghề" là viên quản ngục và thầythơ lại, thái độ khinh bạc của Cao Bá Quát, tức là ở đây lần đầu tiên xuất hiệnnhững nét nhạc sẽ tạo thành giai điệu Nguyễn Tuân. Nhưng phần kỹ thuật chỉ thugọn trong câu Cao Bá Quát bảo viên quản ngục ở đoạn kết. Không một chữ nào vềthư pháp nói chung, cũng như về thư pháp Cao Chu Thần.
Con nhà Nho như anh và tôi làm sao không biếtchuyện này? Viên quản ngục phải hiểu nó mới mê chữ họ Cao. Chắc chắn anh chưathấy chữ ông ta tận mắt. Nói "Nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên nhữngcái hoài bão tung hoành của một đời con người" -- còn quá chung chung. Bútpháp Cao Chu Thần đâu chỉ tầm thường đến thế? Đây là một thiếu sót chứng tỏ anhđã tìm được cho mình một đường đi nhưng chưa chuẩn bị hành trang cần thiết.
Sang Những chiếc ấm đất anh mớithành quái kiệt. Những đoạn trao đổi giữa cụ Sáu và người khách lạ về trà, ấmtrà, kim hỏa, ngư nhãn, giải nhãn, cái câu kết thần bút về nắp ấm thế nào là ấmTàu là Nguyễn Tuân chính hiệu.
Cái nhìn kỹ thuật, mỹ hóa kỹ thuậtđể văn học tạo nên ở bạn đọc lòng khao khát chế tạo đồ vật hoàn mỹ, đó là giaiđiệu mới lôi cuốn những ai đọc văn anh.
Trước anh, văn học là cuộc đời củanhững con người, những tình huống éo le của những thân phận. Với anh, văn họclà để giáo dục những kiến thức về văn hóa và cách nhìn kỹ thuật để tự mình tạora cái đẹp. Đến Trên đỉnh non Tản, anh viết nổi những câu có thể làm Nguyễn ĐỗCung thỏa mãn: "Những đầu kèo vai và câu đầu đều chạm tứ quý, tứ linh. Bứctrần gỗ thì chạm bát cửu cổ đồ… Họ chia nhau ra mà chạm, người thì tỉa hình thưkiếm, quạt và phất trần, kẻ thì gọt dáng tù và với túi roi hoặc là túi thơ cùngbầu rượu, cái nọ ghép vào cái kia thành những bộ đôi, nét giẻo như tung bayđược".
Tôi nghĩ không ai đọc Nhất Linh, Khái Hưng, VũTrọng Phụng với từ điển trên tay. Đọc Nguyễn Tuân lẽ ra phải có từ điển, loạitừ điển về văn hóa cổ hiện nay chưa xuất bản.
Anh biểu hiện cùng một lúc hai biệt tài tráingược nhau không ai làm được. Biến ngôn từ kỹ thuật thành ngôn ngữ nghệ thuậtvà vẽ lên một bức tranh kỳ ảo, mông lung, nhưng từng chi tiết chính xác và cócái kết thúc tung bay được: "Bên dặm lệ liễu, màu phấn hồng, có đến linhtrăm con chim quyên màu tím hoa cà, đang rỉa những mảng hoa mấy khóm phong lanđen như gỗ mun, làm hương thơm bay tà tà, đè mãi trên giòng Tịch-Mịch".(Trên đỉnh non Tản)
Người ta hay căn cứ vào một vài lờinói của tác giả về mình để đánh giá tác giả. Nếu làm thế không thể nào hiểuđúng Nguyễn được.
Nhiều nhà văn luôn luôn kêu: Tôi chân thực,tôi chung thủy, trung thành, nói toàn lời gan ruột, hãy yêu tôi đi! Nguyễnkhinh độc giả ra mặt, bất cần độc giả: tôi khinh anh đấy, anh làm gì nào?Nguyễn không nể nang ai, cả mình cũng như bạn đọc. Nguyễn không tìm cách tranhthủ cảm tình ai, nhất là với các nhà phê bình thì anh cố ý trêu chọc.
Cho nên dù bắt buộc phải khen anh chỗ này chỗnọ, thế nào nhà phê bình cũng chêm cho được một câu về tính khinh bạc, lập dị,thích ăn chơi của Nguyễn. Kết quả, hiện tượng Nguyễn Tuân thành một bài toánđầy mâu thuẫn không sao lý giải cho ổn được.
Tôi nghĩ khác.
Tôi xét Nguyễn từ góc độ lao động.
Xét ở góc độ này, Nguyễn là ngườiyêu nước và nhân dân tha thiết nên quan tâm hơn ai hết đến ngôn ngữ, văn hóa,lịch sử, phong tục, từng biểu hiện nhỏ của đất nước. Nhưng đất nước bị nô dịch,biến anh thành một chàng bất đắc chí.
Anh thấy cuộc sống của mình là vônghĩa, không biết dùng cái kho kiến thức, cái vốn tình cảm dồi dào và tài nănghiếm có của mình vào việc gì. Anh lại sống vào một thời buổi ăn chơi nên phungphí tuổi trẻ vào hành lạc. Giới nghệ sĩ đương thời là nơi tập trung của tưtưởng yêu tự do cá nhân đến mức ích kỷ, hoài nghi, duy mỹ, tìm khoái cảm, tựphụ tự đắc, nghệ thuật vị nghệ thuật.
Phong trào bình dân đã cứu đượcNguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… và vô số người khácnhưng không cứu được anh.
Tôi biết nói thế là tàn nhẫn, nhưnglàm sao trong toàn bộ tác phẩm trước cách mạng của anh không có bóng dáng gìcủa những cuộc vận động to lớn do Đảng lãnh đạo? Trái lại, trong những năm sôiđộng của lịch sử, tôi chỉ thấy anh tìm cách thoát ly.
Anh chạy vào quá khứ trong Vang bóngmột thời, vào hành lạc trong Ngọn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua, vào nộitâm trong Nguyễn, đi lủi thủi trên đường trong Thiếu quê hương, chạy vào maquái trong Yêu ngôn. Có một xu hướng thoát ly nẩy sinh trong những năm nhốnnháo này là có anh ngay, và anh nổi bật ngay, bởi vì, làm sao phủ nhận điều đóđược, "trời đất cho anh một cái tài". Vào lúc đó, anh mở ra một đườngđi cho mình trong tùy bút. Các nhân vạt vốn đã thấp thoáng giờ lại mờ đi đếnmức biến mất chỉ còn độc anh Nguyễn.
Cốt truyện đã lỏng lẻo giờ bốc hơi. Câu vănđiêu khắc bị giải thể, nhường chỗ cho một sản phẩm mới mang dáng dấp của câuvăn tự hành. Toàn suy nghĩ nội tâm.
Nói miên man còn nhẹ. Bảo đầu Ngômình Sở không oan. Những hình ảnh trong một giấc mơ. Lẽ ra loại câu văn ấy chỉgây cảm giác khó chịu. Thế mà đọc không dứt ra được mới tài. Đọc xong chẳng nhớgì hết. Đọc lại vẫn cứ quên, thế mà đọc không biết chán.
Còn cái nhìn kỹ thuật? Nó vẫn hiệnlên chỗ này chỗ nọ, trong cách đánh trống chầu, đánh cờ của ông Thông Phu, trênchiếc va-ly, trong các ký họa về cảnh vật, đọng lại trong cách làm giấy dó,trên đầu tóc chị Hoài. Vẫn còn, nhưng đã chìm đi. Mải chạy theo cái đẹp tự nó,không những anh quên mất nội dung, mà còn mỹ hóa cả sự trụy lạc. Là người chânthành, anh thấy mình hèn, anh chán cả mình. Anh không viết nữa. Anh không phảilà người ngụy biện để bảo vệ cái xuất.
Suốt cuộc đời anh có một điểm nhất quán: anhkhông cố tình lừa dối ai. Con người như thế khi thất vọng sẽ nghĩ đến chuyện tựsát. Kinh nghiệm này tôi đã thấy ở nhiều nhà văn châu Âu: "Ta sẽ mượn cáisúng của nó, trong một buổi, để bắn vào bóng thằng người này" (Vô đề,1945).
Tôi không cho là Nguyễn nói đùa.
Ngay những người ghét anh nhất cũngphải thừa nhận cuộc đời anh là ngang bằng sổ thẳng, yêu ghét phân minh, khôngcúi luồn cũng không hống hách, thủy chung hết sức, không bao giờ mưu lợi chomình để hại người khác, không có mánh khóe. Đó là gia tài chung của những ngườithừa hưởng một giáo dục gia đình như anh. Với anh nghệ thuật là mục đích, cuộcsống là phương tiện. Khi mục đích đã vô vọng, cuộc sống mất ý nghĩa.
Mãi sau này, khi đi sâu vào phongcách học, tôi mới hiểu được tại sao tôi có thể thích tùy bút của anh. Tại saolối hành văn tùy hứng, nói miên man, tư tưởng lộn xộn như thế lại lôi cuốn đượcngay cả những kẻ duy lý đòi hỏi một kỷ luật chặt chẽ của từng nếp nghĩ. Khôngphải vì văn anh đẹp. Văn Gide phải nói là đẹp nhưng không thu hút họ. Đó là vìtâm hồn của anh. Tôi phục Evtushenko khi gọi anh là "cậu bé 70 tuổi".Tôi đã gọi anh là "thằng cha" với anh Đào Hùng vì không thể nào gọilà "ông Nguyễn Tuân" được.
Anh đã nghe anh Đào Hùng nói lại vàxác nhận chữ này là đúng. Nhưng chữ "thằng cha" nghe nó gây gổ, tôidùng chữ cậu Nguyễn vậy.
Trước cách mạng, cậu Nguyễn bướngbỉnh, không chịu nghe ai, nhưng đó không phải vì bản tính cậu ngoan cố mà vìcậu đòi hỏi bằng chứng chính xác.
Cậu rất yêu bà mẹ là đất nước nhưngcậu không phục mẹ, thấy mẹ yếu đuối, người ta bảo cậu khinh bạc. Nhưng điềuquan trọng hơn là cậu khinh bạc với ai, với cái gì. Cậu khinh bạc đối với mọicái người ta chạy theo: tiền tài, địa vị, chức tước. Cậu khinh hạng độc giả tìmở văn học cái gì giật gân, để thỏa mãn giác quan. Nhưng ở trong văn cậu, tathấy nguyên vẹn cái nhìn ngây thơ, khao khát tìm hiểu, lòng tôn trọng mọi giátrị đạo đức đã giúp cho dân tộc tồn tại: tình chung thủy vợ chồng, nghĩa bạnbè, sự chân thực của người lao động.
Cậu chán đời không phải vì no nê phè phỡn,không phải vì không thể thỏa mãn xác thịt. Cậu chán vì nó không đáp ứng cáiđẹp, cái cao quý mà cậu tìm kiếm.
Thử đưa ra một giả thiết. Nếu khôngcó cách mạng và Nguyễn tự sát thì sao? Địa vị của anh trong văn học sẽ như thếnào? Người ta sẽ nhắc đến một nhà văn tài hoa, có cái nhìn sắc sảo, một cáchhành văn mới mẻ ở đó thể hiện một sự giao thoa (interférence) sâu sắc giữa quákhứ với hiện tại, đặc điểm không thể thiếu ở một nhà văn lớn.
Nhưng không cách nào xem anh là một nhà vănlớn được, ngay về mặt phong cách. Bởi vì cái gì ở anh cũng nửa vời.
Cái nhìn kỹ thuật mới chớm nở ở mộtvài biểu hiện của văn hóa cổ thì đã rơi tõm vào con đường mỹ hóa sự trụy lạc,con đường chẳng có gì mới mẻ và ngay ở đây cũng chưa bằng một nhà thơ khác.
Câu văn điêu khắc chỉ thành côngtrước một vật cụ thể, bước vào lý luận thì văn Nguyễn yếu. Nguyễn không có đượccâu văn tư biện. Tuy các suy tư miên man lôi cuốn bởi cái nhìn ngây thơ nhưnghọc vấn ấy tạp, về nhiều điểm rất sắc sảo nhưng không có mặt nào chu đáo, còn ýkiến thì chắp vá, thiếu tính thống nhất của một tư duy độc lập. Ngay trongnhững bài thành công nhất vẫn có cái gì khập khiễng của một tác phẩm chưa thựcxong xuôi. Tôi sợ hình ảnh anh trong văn học đời sau sẽ là hình ảnh của cụ NghèMóm, ông Thông Phu. Tản Đà chết không trẻ, Vũ Trọng Phung chết thảm, Thạch Lamchết oan. Còn nếu anh tự sát vào lúc này người ta sẽ bảo là tất yếu. Xin hươnghồn anh tha thứ cho cái nhận xét tàn nhẫn này.
Anh đã nói đến sự thay đổi của mìnhnhờ cách mạng trong bài Vô đề sau đổi là Lột xác và trong lời phát biểu sauchỉnh huấn. Tôi muốn nói đến những điều hiển nhiên mà anh không thể ngờ được,bởi vì nhiệm vụ của khoa học là thế. Nếu ai cũng thấy quả đất quay thì thiênvăn học sẽ thừa. Cũng vậy, nếu tác giả hiểu được phong cách của mình thì khoaphong cách học là vô dụng.
Cách mạng trả lại cho cậu tổ quốc.Cậu hiểu được một khái niệm mới từ nay sẽ chỉ đạo bốn mươi năm sáng tác củacuộc đời còn lại: trách nhiệm. Cậu nhận thức được trách nhiệm đối với bà mẹ cậurất thương yêu nhưng giờ đây cậu mới hiểu là hiên ngang, bất khuất. Đứa con bấttrị trở thành đứa con chí hiếu. Cậu tự giằng mình ra khỏi cái cũ. Cậu đã thắngvì cái vẻ kiêu căng, ngỗ ngược chỉ là bên ngoài. Trong thâm tâm cậu Nguyễnchung thủy, ngây thơ, phục thiện, có quyết tâm cao, những đức tính vẫn tiềmtàng trong các tác phẩm trước cách mạng nhưng giờ đây mới bộc lộ rõ ràng. Cáchmạng đã cứu sự nghiệp văn học của cậu không chỉ hôm nay, ngày mai mà cả trướckia nữa. Các tác phẩm ấy được đọc lại dưới ánh sáng mới và cái đẹp của nó mớicó dịp được xác nhận. Nếu không, nó sẽ làm người đọc xót xa như trường hợpnhiều nhà văn, nhà thơ khác, trong đó đâu phải đã thiếu những tài năng thực sự?
Sau khi đối lập hai giai đoạn sángtác của cậu Nguyễn, dùng giai đoạn sau để cắt nghĩa giai đoạn trước, tôi thấycậu là cậu bé ham hiểu biết, yêu cái đẹp, ghét sự giả dối dưới mọi biểu hiện.Cậu chúa ghét ngụy biện, ghét chuyện triết lý suông, khao khát sự chân thành.Trước cách mạng cậu là nhà văn tài hoa, sau cách mạng cậu đốn ngộ (*) thành nhàvăn lớn. Nếu ai bảo tôi tìm một nhà văn chứng minh được tác dụng to lớn củanhân sinh quan cách mạng đối với nghệ thuật, tôi sẽ nói ngay: đó là NguyễnTuân. Tôi biết nói thế nhiều người không chịu, nhưng đây mới là cái kỳ diệu củacách mạng Việt Nam.
Đối với Nguyễn, nghệ thuật là ý nghĩacủa cuộc sống. Muốn có một nghệ thuật có ý nghĩa, phải thực hiện một cuộc sốngcó ý nghĩa. Là người chân thành, mặc dầu ngay từ đầu được đặt vào địa vị lãnhđạo, cậu vẫn không tìm ý nghĩa cuộc sống ở sự lãnh đạo. Cậu có đủ điều kiệnkiếm một chỗ ngồi yên ổn, cách xa mọi gian khổ và giáo dục các nhà văn. Cậu làmthế không ai có thể chê trách được vì Vũ Trọng Phụng chết rồi, rõ ràng cậu lànhà văn cũ lớn nhất. Nguyễn không chờ đợi như nhiều nhà văn, nhà thơ khác. Đốivới Nguyễn, sống nghĩa là viết, dù cho cậu thừa biết bước sang nền văn học mớichẳng phải dễ dàng. Chùa Đàn là một cố gắng. Rồi vác ba-lô lên vai đi công tácsuốt mười năm kháng chiến. Khu Năm, Khu Bốn, Việt Bắc. Đóng kịch, theo bộ độichiến đấu. Có mặt ở khắp nơi, ghi ghi chép chép. Học hỏi mọi người, chan hòavới mọi người. Sống hết mình, sống trách nhiệm. Hình ảnh người Tổng thư ký HộiVăn nghệ mà tôi gặp năm 51 là thế.
Một đường lối đúng dù là đường lốichính trị, quân sự, là ở kết quả đem lại cho đất nước. Đường lối văn nghệ cũngthế. Phải có tác phẩm. Nhưng ở văn học còn cần cả yếu tố con người nữa. Ai làm?Nếu đó là Tố Hữu thì giá trị thuyết phục không cao, bởi vì chẳng phải nhờ cáchmạng thắng lợi thơ anh mới hay. Nếu nó nhờ nội dung thì giá trị thuyết phụcchưa lớn lắm. Người ta sẽ bảo đây là vì đề tài, tư tưởng. Cái đẹp tâm hồn, khíphách, cái lớn của cách mạng, tự nó đủ sức lôi cuốn mọi người Việt Nam vì dướiđáy lòng mỗi người Việt Nam đều có một Trần Bình Trọng. Nếu đây là một nhà vănmới xuất hiện thì tính liên tục của văn học bị tổn thương. Trong mấy năm đầutuy đã có một số tác phẩm nhưng chỉ có tư tưởng, chủ đề, đối tượng thay đổi,chưa có sự thay đổi về bút pháp. Tuổi trẻ của tôi đã sống mười năm thần thoạitrong đó sự thành công, thất bại của một người, là sự thành công, thất bạichung. Tôi đọc Đôi mắt của Nam Cao ràn rụa nước mắt, kêu lên "Thắngrồi!". Tôi đọc Gió Lào, Chân trời Việt Bắc của Nguyễn với niềm sung sướngkhông gì sánh nổi và tự bảo "Nền văn học mới đã ra đời!". Tôi nói ởđây lòng biết ơn của thế hệ hai mươi lúc bấy giờ với những bậc đàn anh đãkhuất. Thế hệ tôi đòi hỏi một nền văn học có trách nhiệm trước cuộc sống nhưnggiản dị như cuộc đời chúng tôi.
Chính nền văn học mới đã được khẳngđịnh bởi các tùy bút của Nguyễn Tuân vì khi cậu Nguyễn viết được những tác phẩmnhư thế thì nó càng được khẳng định hơn bất kỳ ai. Tại sao? Vì ai chẳng biếtanh nổi tiếng bất kham. Con ngựa thường ai cưỡi cũng được. Ngựa thiên lý mãkhông đi tìm cuộc sống mà tìm ý nghĩa của cuộc sống. Ý nghĩa ấy là ở ông chủcủa nó; không có ông chủ ấy kiếp thiên lý mã là kiếp sống nhục nhã. Cho nên nóđã quỳ xuống, nó sẽ chết cho người kỵ mã.
Tôi biết có nhiều nhà phê bình chothái độ dành cho đồ vật địa vị trung tâm là một sự sa đọa trong nghệ thuật. Tôikhông muốn lặp lại ở đây những lời phê phán. Những đồ vật đã từng chiếm địa vịtrung tâm từ lâu trong điêu khắc Babylon, hội họa Trung Quốc, nhạc châu Âu, thơĐường mà có gây tại họa gì đâu? Không lẽ văn học lại tự nó thoát ly ra ngoàicác nghệ thuật khác. Tôi nghĩ câu chuyện không ở đồ vật mà ở chỗ người ta dùngđồ vật để làm gì, để xóa bỏ mọi quan hệ xã hội hay để nêu các quan hệ ấy càngsâu sắc, quyết liệt. Người ta lấy đồ vật để phân chia lịch sử loài người thànhthời đồ đá, thời đồ đồng, thời đồ sắt, thời máy hơi nước, vân vân, mà không aibảo là xuyên tạc lịch sử cả. Chẳng phải vào thế kỷ này cả hành tinh đều đãthành những đồ vật của ta rồi sao? Ngay cả không khí, nước róc rách, cây xanh,chim hót, hoa nở chẳng phải đều đã được ta tổ chức lại theo nhu cầu của ta sao?Cô gái đẹp trước mắt anh là hình ảnh tập trung của nhiều khoa học tạo ra cáiđẹp từ đầu tóc, quần áo đến cả móng chân. Máu trong người cô là sản phẩm củadinh dưỡng học. Con người thời đại này nói đến hạnh phúc thì nghĩ đến cái gì?Tôi cam đoan anh ta không thể bỏ qua đồ vật được: căn hộ, bữa ăn, ti vi, tủlạnh…
Cuộc đời là thế. Thời đại kỹ thuậtđòi hỏi con người phải nghệ thuật hóa kỹ thuật để cải tạo thế giới theo tiêuchuẩn cái đẹp. Giáo dục thưởng thức cái đẹp chưa đủ. Phải bước sang giai đoạngiáo dục kỹ thuật chế tạo cái đẹp qua đồ vật để nối liền nghệ thuật với khoahọc. Con người thời đại này có một nhu cầu mới cần được thỏa mãn: nhu cầu làmkhoa học. Nghệ thuật phải tạo cho người đọc những thói quen mới, − thói quencủa khoa học, bởi vì thời đại an bần, tri mệnh đã qua, con người có trách nhiệmlàm đất nước giàu mạnh bằng khoa học kỹ thuật.
Theo tôi, cậu Nguyễn lớn, vì cậu làngười đầu tiên ở Việt Nam mở ra con đường này. Tôi không bác bỏ mọi thể loại đãcó. Nhưng tôi nghĩ rằng văn học không thể thoát ly khoa học được. Trong vònghai thế kỷ này đã xuất hiện thể loại tiểu thuyết trinh thám, viễn tưởng, tìnhbáo, lịch sử thì việc dùng thao tác khoa học để khảo sát đồ vật, qua đó đưa conngười vào khoa học là hợp lý. Đây là con đường mới ở đấy mà công lao của Nguyễnsẽ trường tồn. Ở Việt Nam. Ở thế giới. Đó là con đường cách mạng đã đưa đến choanh. Nói điều này có vẻ lạ lùng và chính anh cũng không nghĩ thế.
Anh Nguyễn viết tùy bút như một côngtrình khoa học. Nói ra có vẻ vô lý nhưng đây là sự thực hiển nhiên. Tôi xin lấytiêu chuẩn của công trình khoa học để xét tùy bút sau cách mạng của anh.
Đặc điểm đầu tiên của một công trìnhkhoa học chân chính là tính hết kiệt (caractere exhaustif). Tức là khi nó đãxét một đề tài, nó muốn nói kiệt về đề tài. Tất cả mọi kiến thức có giá trị vềđề tài đều được nó dung nạp hết và nó đẩy sự hiểu biết đến tận cùng trong phạmvi thời đại cho phép. Chỉ có làm thế, đời sau mới khỏi làm lại và dựa trên đómà tiến lên nữa. Ta xét Gió Lào, Cây tre bạn đường, Cây Hà Nội. Tôi đã nóitrước cách mạng mọi tác phẩm của anh đều nửa vời. Anh chỉ phác lên đôi nét đủkhoe cái tài khám phá của mình rồi lập tức bao phủ nó bằng một bầu không khí kỳảo, nửa thực nửa hư mà anh là người duy nhất làm được. Sau cách mạng, cái khôngkhí ma quái bao quanh đồ vật biến mất, chết hẳn, không bao giờ ngóc đầu dậynữa. Tôi hiểu anh đã bóp chết một "cố nhân" (chữ của anh) thân thiếtnhất của mình, một sở trường đã làm cho anh thành lỗi lạc theo cả hai nghĩa,nghĩa Hán Việt và nghĩa thuần Việt. Tôi đọc các tác phẩm của anh sau cách mạngbằng hệ thống thao tác tôi đã dựng lên đối với các tác phẩm trước cách mạng thìsửng sốt. Cái này ở đây có thì đó không, ở đây không thì đó có.
Xin giới thiệu vài cặp đối lập: nửavời / hết kiệt; ma quái / thực tế; du khách / cán bộ cách mạng; hành lạc / sảnxuất và chiến đấu; kẻ ngoài lề / kẻ nhập cuộc ; người bất đắc chí / người chiếnsĩ; câu văn tự hành / câu văn tự giác ; nói miên man / quan hệ hóa, v.v…
Tôi hiểu cái câu của anh "bâygiờ chỉ còn kỹ thuật", nó sâu sắc đến thế nào. Nhìn bên ngoài, phong cáchcó vẻ không thay đổi: vẫn đồ vật là trung tâm, vẫn tùy bút, vẫn những chuyếnđi, vẫn không cốt truyện, vẫn những suy nghĩ nội tâm tổ chức lại tất cả. Nhưngcũng một con đường lại rẽ thành hai lối trái ngược vào năm 1945. Thực may choanh là chưa đi đến cùng lối thứ nhất. Từ khi gặp cách mạng, anh rẽ sang lối thứhai và đi một mạch suốt 43 năm còn lại, không ngừng một phút, không để chongoại cảnh chi phối. Giai đoạn 1956-1960 giai đoạn sóng gió nhất của đời anh làgiai đoạn của Sông Đà, kiệt tác. Hỏi mấy ai làm được cái kỳ công như thế?
Đã đi con đường này, chỉ có một cáchlàm: nhảy vào nơi khói lửa của sự kiện. Nhưng trước khi bước vào sự kiện phảivõ trang mình bằng khoa học. Với thời đại kỹ thuật, xuất hiện loại nhà văn nhưthế.
Các bạn hãy đọc công trình Tranh dângian Việt Nam của Thái Bá Vân và Chu Quang Trứ, hai chuyên gia về tranh dângian viết sau đó 27 năm thì sẽ thấy mọi nhận xét của Nguyễn đều chính xác vàthực tế công trình khảo sát không vượt được bài ký của Nguyễn về mặt khoa học.Viết một bài ký mang tính hết kiệt như thế đâu phải là nhờ vào tưởng tượng, tàinăng biến hóa, những điều mà ta biết anh Nguyễn có dồi dào.
Một thí dụ nữa. Nhà ngôn ngữ họcHaudricourt, nguyên là kỹ sư nông học, chuyên về lịch sử cây trồng có bảo tôirằng tiếng Việt có 17 từ để chỉ cây tre và các từ của các nước để chỉ tre làbắt nguồn từ 1 trong 17 chữ này. Đó là bằng chứng ngôn ngữ học chứng minh câytre gốc ở Việt Nam. Anh Nguyễn không đọc Haudricourt, nhưng đây là danh sáchtên tre anh dẫn ra trong bài Cây tre người bạn đường: "Họ hàng cây tređông đúc. Tre lộc ngộc, tre làng ngà, tre Mạnh Tông, tre mỡ, tre đá, tầm vông,lồ ô, tre bông Nam Bộ, mình đẹp như đồi mồi. Trúc xe điếu, trúc chỉ, mai,giang, nứa, hóp, vầu, bương, luồng". Trong một câu văn có vẻ bình thườngnhất có 9 tên tre khác nhau, và 8 tên kép. Anh có thua gì một kỹ sư lâm họcđâu? Viết văn đối với anh là làm việc như thế đấy. Riêng điều này cũng chứngminh vốn từ của anh phong phú như thế nào. Anh đưa ra được từ cười trong trên100 kết hợp. Danh từ anh chính xác đã đành, động từ anh mới là vô địch. Có điềukiện viết một bài về cách dùng động từ của Nguyễn Tuân sẽ rất có ích cho nhữngnhà viết văn trẻ cứ tưởng viết văn là chuyện dễ dàng. Cách mạng thành công,Lênin dạy "Học, học nữa, học mãi". Con người yêu chủ nghĩa xã hội,sống cho nó phải đặt cho mình một kỷ luật "học suốt đời". Nguyễn Tuânđã học suốt đời. Kiến thức anh trước tạp, giờ rất sâu. Đề tài nào anh viết xonglà kiệt đề tài ấy. Riêng về mặt kiến thức, mỗi bài là một luận văn tiến sĩ. Nhàlâm học không thể vượt được anh trong hiểu biết về cây Hà Nội, nhà khí tượnghọc không thể hơn anh về gió lào, nhà thực phẩm học không còn gì để nói sauPhở, Giò lụa. Chưa một nhà địa lý học nào đuổi kịp anh về Sông Đà.
Muốn học được nhiều như thế và sâunhư thế phải khiêm tốn suốt đời. Hãy so sánh từng đề tài một của anh trước vàsau cách mạng, rồi với các nhà văn hiện đại. Ta sẽ tự hào có một nhà văn ở đấynghệ thuật xây dựng trên khoa học và khoa học được mỹ hóa thành nghệ thuật. Aibắt anh học? Cuộc đời. Không phải. Đó là tinh thần trách nhiệm, lòng trungthành với Đảng. Những trang anh viết về gió có thể đưa vào văn học thế giới.Gió Lào, gió Than Uyên, gió Cửa Tùng… Anh nghênh ngang tý chút chẳng qua đểnhắc nhở với đời rằng dù ở địa vị nào ta cũng chỉ là đầy tớ của dân. Vài cốcrượu bằng tiền túi của anh trước mặt mọi người là lối ẩn thân của Đông PhươngSóc. Thực tế, anh là nhà khổ hạnh trong nghệ thuật. Với cái tài sẵn có là baophủ đề tài bằng một bầu không khí hư ảo, anh cần gì phải vất vả đến thế! Mà vấtvả thế làm gì khi chung quanh mấy ai hiểu cho anh? Con người chí tình khôngchấp nhận cái nửa vời. Tôi nhớ Đỗ Phủ "Chữ chửa kinh người chết chẳngthôi". Đây là sự thèm khát do chính nghệ thuật thúc đẩy. Không có dịp đếnCà Mau, anh đọc sách, đi hỏi đến mức tả được bầu trời Cà Mau "ong ong, taitái" làm nhà văn Anh Đức ở ngay đấy phải phục. Khi cái đẹp đồng thời làchính nghĩa nó có thể khiến con người tạo được những kỳ công như thế.
Đặc điểm thứ hai của một công trìnhkhoa học là nó phải biến vô vàn sự kiện mà cái đống tư liệu anh thu thập đượcthành quan hệ là bản chất, rồi dùng quan hệ mà tổ chức lại tài liệu. Trước cáchmạng, không bao giờ anh nghĩ đến chuyện này; trái lại, anh cố tình kéo bạn đọcvào một mê cung trong đó các liên tưởng phóng túng của anh tha hồ làm mưa làmgió. Đây cũng là một cố nhân rất thân thiết của anh mà như anh nói, anh đã bópchết.
Trước kia nghệ thuật của anh cốt kéo người đọc sang một thế giới khác đểthoát ly khỏi cái thế giới này mà anh chán ghét. Khi Đảng trả lại cho anh đôimắt và trí nhớ, anh thấy nhiệm vụ mình là phải giới thiệu cho bạn đọc cái nhìnmới và cái trí nhớ mới này để hành động cho có kết quả. Đây là trách nhiệm. Chonên bài viết từ chỗ là những hình ảnh chập chờn trong giấc mơ của cái cõi vôthức chuyển thành những hình ảnh rõ ràng, vuông thành sắc cạnh của thế giới đãđược nhận thức. Câu văn tự hành bị gạt luôn, ta có câu văn tự giác.
Chỉ cần dẫn thứ tự một bài ký tuyệtxướng phải nằm trong sách giảng văn Người lái đò sông Đà: con người sông Đà, cáchlái đò, các thác, đặc điểm từng thác, kỹ thuật lái đò, sông Đà từ trên máy baynhìn xuống, cái đẹp sông Đà, lịch sử sông Đà thời Tây, thời Nhật, cái vui củasông Đà được giải phóng, từng quan hệ một lại được quan hệ hóa lần nữa đến hếtkiệt mới thôi, chẳng hạn đoạn kỹ thuật lái đò.
Đọc nó, rồi hồi tưởng lại chínhcũng cậu Nguyễn này đã viết Thiếu quê hương. Lúc đó ta khắc hiểu sự đổi mới tolớn của Đảng đem lại trong lòng mỗi người.
Bài Về tiếng ta (1966) của anh viếtnhư một nhà phong cách học cự phách. Anh thì giờ đâu mà học ngôn ngữ học? Thếmà mọi lập luận đều chính xác đến mức một kẻ tự cho mình là người trong nghềphải bái phục. Quan điểm của anh về tính trong sáng của tiếng Việt là tài giỏiđến mức độ không mấy nhà ngôn ngữ học hiểu được. Tôi chỉ muốn lấy bài đó làmbài tựa cho quyển phong cách học của tôi.
Tính chính xác từng chi tiết là họcđược, sự hiểu biết kỹ thuật là có thể đạt được. Quan hệ hóa là thao tác làmđược. Nếu ta bó hẹp đối tượng vào một lĩnh vực hẹp thì ta vẫn đạt được nhữnghiểu biết của Nguyễn.
Cái khó ở chỗ khác. Với một người khác, với chừng nấyhiểu biết, chừng nấy quan hệ sẽ đem đến một bài văn rất dở. Muốn tạo nên mộttác phẩm nghệ thuật phải có câu văn mới, câu văn Nguyễn Tuân, phải có cái nhìnmới, cái nhìn Nguyễn Tuân.
Phạm vi bài này không cho phép nóivề câu văn của Nguyễn, chỉ có thể nói đôi nét về sự chuyển hóa của câu văn. Cáiđẹp trong Vang bóng một thời thuộc về quá khứ. Câu văn điêu khắc ở đấy hợp vớimột thế giới tĩnh, ngưng đọng.
Nghệ thuật của Sông Đà, Tình rừng là hiện đại.Thời đại này cái mới xen lẫn cái cũ ở mọi lĩnh vực. Công việc rối rắm, sự kiệnngập đầu. Mọi cái biến đổi. Cái lổn nhổn là nét mới của hội họa, âm nhạc, thơvà văn xuôi.
Nghệ thuật hóa được cái lổn nhổn ấy mới là tay cự phách. Bỏ nóđi, tính hiện đại mất. Để nó thống trị như nhiều nhà tiểu thuyết trẻ đã mắc,nghệ thuật tan vỡ. Kinh nghiệm của Nguyễn ở đây thực đáng trân trọng. Một cáchlàm quen thuộc của anh là liệt kê, liệt kê cái lổn nhổn ra đến mức độ người taphải khó chịu.
Nghệ thuật là sự cực đoan, không phải là nơi dĩ hòa vi quý. Saukhi tạo nên được cái khó chịu cần thiết, anh tung ra câu văn nhẹ nhàng toàn suynghĩ, hồi tưởng, nhịp nhàng đến mức phổ nhạc được. Đó là một mẹo. Lúc đó do sựtương phản, cái cảm giác khó chịu không những mất đi mà lại chuyển thành sự thúvị. Bằng cách đó, Nguyễn là một thứ Hàn Tín, quân càng nhiều càng tốt, kiếnthức khoa học càng chính xác càng làm cho giá trị nghệ thuật nâng cao.
Một mẹokhác. Quay trở lại câu văn lung linh ngày xưa, trong đó các động từ và các từláy âm dùng đắc thể đã gây cho người đọc một sự say mê gần như ma quái, nhưngphần cuối không bay lên mà xoáy vào lòng người ta như một lưỡi dao. Câu này lấyở Bến Hồ và làng tranh, tổ chức rất gần câu đã dẫn ở Trên đỉnh non Tản:"Nỗi xót xa tiếc nhớ đối với những bản tranh khắc gỗ kia lên tới cái mứctôi ngồi mà hình dung ra được cái tiếng của tội ác giặc đang kêu vù vù trên lửa;nó kêu vù vù đến đâu thì gỗ mộc bản đỏ rực lên; và trên những thớ gỗ co oằn, nổlách tách, trên những mảng tàn than trắng ra, những nét khắc càng hiện rõ, vànhững nét mặt của tố nữ đang méo dần đi, đang tàn úa với đống than vạc".
Tôi đếm được mười hai mẹo nhưng thúthực không biết đã đủ chưa vì chưa có điều kiện lập phích cho toàn bộ sáng tác.Thậm chí, tôi ngờ số mẹo là ít hơn vì rất có thể hai ba mẹo chỉ là một, do ngữcảnh khác nhau mà thôi. Có một điều chắc chắn. Tuy anh là vô địch trong cáinghề đưa ra những liên tưởng để tổ chức câu chuyện nhưng sau cách mạng các liêntưởng đều rất khiêm tốn, vừa đủ để giữ tính chất ký của thể loại chứ không trànra ngoài chủ đề như xưa.
Tôi rất tiếc không có trong tay bàiChân trời Việt Bắc. Đọc bài ấy, tôi bỏ tham vọng viết văn, chạy vào ngôn ngữhọc. Đầu đề rất tẻ nhạt. Nguyễn lên Việt Bắc, núi non che phủ tứ phía gây choanh cái cảm giác thèm khát chân trời. Anh phân tích hết kiệt cái cảm giác ấykhông thua một nhà tâm lý học bậc thầy, để đi đến một kết luận bất tử: Nguyễnđã tìm được một chân trời ngay trong lòng mình! Thực là thiên cổ hùng văn.Trong một câu thâu tóm cả chân lý mới của thời đại. Một đời nghệ sĩ chỉ cầnviết được một câu như thế là đủ. Nhà văn, nhà khoa học Việt Nam không quen tựmình phân tích đối tượng mà quen suy luận theo một mô hình đã chọn, dựa vàocách phân tích của người khác. Anh làm sao đạt được một trình độ phân tích caođến như vậy khi vốn liếng nhà trường cấp cho anh quả thực không nhiều!
Câu văn Nguyễn Tuân đã là mới, nhưngcái nhìn Nguyễn Tuân mới là kỳ tuyệt. Đảng đã cấp cho anh cái nhìn ấy. Đây làưu điểm chung của nền văn học mới. Nhưng qua con mắt anh, đất nước Việt Namhiện lên với ánh sáng của hội họa Hà Lan, điều đó mới lạ.
Chưa ai viết về đấtnước, con người Việt Nam đặc sắc như anh. Cảnh vật dưới mắt anh bùng lên mộtánh sáng thân thương mà chỉ những kẻ đã đổ máu cho đất nước mới thấy được: NhậtTân, Sơn La, Điện Biên, Sông Đà, Cô Tô, Vân Đồn, Vĩnh Lĩnh, Huế, Cà Mau… Cónhững trang có thể đưa nguyên vào sách địa lý. Một công ty du lịch có thể dùngnó để giới thiệu đất nước bên cạnh các ảnh chụp đúng với góc nhìn của Nguyễn.Nguyễn đã nhìn là xong: chính xác, khoa học, nên thơ, trìu mến vô cùng.
Cáinhìn trách nhiệm với đất nước và con người Việt Nam. Ai nhìn được người lái đòsông Đà như thế này: "Ngực vú, bả vai người lái đò chống sào ngược tháchay bầm lên một khoanh củ nâu, nó là vết nghề nghiệp của đầu con sào gửi lạiđời đời cho người lái đò sông Đà". Ai hiểu được cuộc đời những người đirừng tìm trầm, những cô gái xòe, những người dân địch hậu, đồng bào Tân ThếGiới về nước? Ai gần gũi các cô bán hoa, các cụ in tranh, các chiến sĩ bằnganh?
Bốn mươi ba năm cầm bút của anh saucách mạng là bốn mươi ba năm tin yêu. Các nhà văn Liên Xô đã nói đúng anh là"bậc thầy của ngôn từ nghệ thuật", một bậc thầy của thế kỷ này. Vănhọc cách mạng Việt Nam có quyền tự hào đã tạo nên được Nguyễn Tuân. Sự nghiệpấy, ngay hôm nay, ta đã biết nó là bất tử.
---
(*) đốn ngộ (chữ nhà Phật) : bỗngnhiên giác ngộ, thay đổi (Chú thích của Phan Ngọc)
Nguồn: “Phê bình và Dư luận” số 4B,“Thông tin văn hóa văn nghệ”, Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương Đảng. 1988
-
November 8, 2025
Hai bài viết về người Việt làm giàu
Sưu tầm trên mạng xã hội
_
Song Chi
CẢ XÃ HỘI LAO VÀO LÀM GIÀU, CẢ XÃ HỘI CHẠY THEO NHỮNG CÁI ẢO-Kể từ khi VN có chính sách “đổi mới” về kinh tế, người Việt từ Nam ra Bắc lao vào kiếm tiền, lao vào làm giàu, bằng mọi cách. Như người bị bệnh lâu, thèm ăn đủ thứ, nay “ăn trả bữa”, người Việt sau nhiều năm bị thiếu thốn mọi mặt, bi bóp nghẹt đường làm ăn, cũng có tâm lý như vậy.Nhưng gần 4 thập niên qua rồi, cái tâm lý kiếm tiền, làm giàu bằng mọi cách, cái tâm lý “ăn trả bữa” ấy vẫn không mất đi.
Một phần vì cái triết lý sống chung của cả xã hội, là chạy theo tiền, chạy theo hình thức, những giá trị ảo bên ngoài. Từ quần áo hàng hiệu, cái xe, cái nhà to cho tới bằng cấp, học hàm, học vị, danh hiệu…các thứ. Cả đời người Việt “chạy” theo những thứ như vậy: “chạy” trường, “chạy” lớp, “chạy” điểm, “chạy” bằng, “chạy” ghế, “chạy” học hàm, học vị…Không thể không có cho bằng anh bằng em. Dù rất nhiều những thứ đó là đồ giả. Có một thời bần cố nông thì hãnh diện khoe ra, giàu có thì là cái tội, ăn một miếng ngon cũng phải giấu diếm….Nhưng bây giờ người ta công khai khoe giàu, livestream khoe nhẫn hột xoàn, khoe tiền chất hàng đống, khoe xe hiệu, du lịch sang chảnh, bồ “ngoại”, chồng “ngoại”….Mà ở VN làm giàu một cách tử tế thì khó, không luồn lách, hối lộ, tham nhũng, kết bè kết cánh, vi phạm pháp luật…làm sao mà tồn tại, mà giàu được. Còn các cô gái đẹp muốn giàu, muốn có cuộc sống sang chảnh thì phải có những “mối quan hệ anh em nương tựa lẫn nhau”, với đại gia này, quan chức kia. Hầu hết quan chức, đại gia, các kiểu shark, hoa hậu, người đẹp…sống như vậy, và những người chưa được như vậy thì nhìn vào sự hào nhoáng xa hoa bóng bẩy đó mà ao ước.
Nhưng có biết đâu là ảo, là lừa hết. Lừa trong đời thật, lừa trên mạng. Lừa lẫn nhau và lừa chính mình. Mọi thứ chưng ra bên ngoài cũng là ảo, là giả hết. Hàng hóa giả, thực phẩm giả, bằng cấp giả, danh hiệu giả, nhan sắc giả, đức hạnh giả…
Và cuối cùng, như vừa nói, trong một xã hội rất khó có chỗ cho người sống tử tế, làm ăn đàng hoàng như ở VN thì phần lớn là vi phạm pháp luật, không kiểu này thì kiểu khác. Khi còn tiền để hối lộ công an, quan chức, khi còn phe cánh, còn những “cái dù” chống lưng, thì còn tồn tại, còn xuất hiện trên truyền thông báo chí như những khuôn mặt thành đạt, đẹp đẽ, niềm tự hào của đất nước. Ngược lại thì bất thình lình một ngày phải tra tay vào còng, trở thành tội phạm, bị chính cái nền báo chí truyền thông mới ngày hôm qua còn xưng tụng ngất lời sẽ đạp xuống không thương tiếc, theo những chỉ thị ngầm của X, Y, Z nào đó. Cũng có khi là “nuôi béo để làm thịt”. Cũng có khi đánh con tốt, con mã này để lôi đến con tượng, con sĩ... kia.
Trong khi chính quyền chạy theo mục tiêu là những con số tăng trưởng 8%, 10%, và hai con số; chạy theo những lời tuyên bố rổn rảng, “kỷ nguyên mới”, “kỷ nguyên vươn mình”, bất chấp cái giá phải trả về thiên nhiên, môi trường, chất lượng sống, tự do và hạnh phúc thực sự của người dân, thì cả xã hội cũng chạy theo những mục tiêu kiếm tiền, kiếm mọi thứ, chỉ trừ sự bình an, và tử tế.
Cuối cùng chúng ta giàu lên để làm gì? Sự phát triển, thành công thực sự của một quốc gia có phải chỉ là kinh tế-mà chủ yếu là làm thuê cho nước ngoài và bán tài nguyên, bán sức lao động rẻ? Sự thành công và hạnh phúc thực sự của một con người có phải chỉ là Danh và Tiền?
Bao giờ thì chúng ta thôi tâm lý “ăn trả bữa” và bắt đầu lại từ việc xây dựng lại từ đầu một triết lý sống tử tế cho toàn xã hội, một mô hình thể chế đặt tự do, hạnh phúc của người dân lên trên tất cả?
***
Tuấn Khanh
NGƯỜI VIỆT CỐ GIÀU LÊN ĐỂ LÀM GÌ?
-
Trong những ngày mưa ngập lụt lội nhiều nơi tại Việt Nam, có một người đàn ông đi xe hơi hạng đắt tiền đã giận dữ bỏ đi giữa làn nước, vốn đã lên đến thắt lưng, để lại chiếc xe của mình một cách đau đớn bất lực.
Như hàng vạn người nghèo khó khác đã ngụp lặn, lội qua dòng nước ô nhiễm đó, chèo kéo từng chiếc xe Honda, xe đạp của mình để về nhà, người đàn ông đó chắc cũng có chung một câu hỏi không lời đáp về tương lai mà tiền của là vô nghĩa trước những biến động đang ập đến ngay cửa nhà mình.
Qua những biểu đạt than phiền về ngập lụt khắp nơi, qua các trang mạng hay báo chí, có thể thấy rằng không phải con người Việt Nam đã quá sức chịu đựng, mà họ như sực tỉnh trước một giấc mộng dài được vỗ về bởi những người lãnh đạo về sự hoa lệ của đô thị, về những chỉ số phát triển… nhưng chỉ trong tích tắc đã lộ ra rằng mọi thứ chỉ là sân khấu tạm thời rực rỡ.
Khi cánh màn nhung và những lời tuyên bố vừa dứt, hiện thực đã hiện ra tàn nhẫn với tương lai về nhà đen ngòm.
Người Việt rầm rộ làm giàu từ nhiều năm nay, tập bỏ quên mọi thứ khác chung quanh mình, mà tưởng chừng miếng cơm manh áo no đủ sẽ giải quyết tất cả, nhưng mọi thứ lại không phải như vậy.
Chưa bao giờ người Việt ào ạt in và ngấu nghiến đọc những công thức dạy làm giàu, dạy thành đạt như bây giờ. Thậm chí liều thuốc cường dương dựng đứng giấc mơ thành đạt của Mã Vân (Jack Ma) cũng được nhắc đi nhắc lại như một kim chỉ nam “quá 35 tuổi mà còn nghèo là tại bạn”.
Thế nhưng những phong trào uống, chích các loại thuốc như vậy không hề có việc ghi chú chống chỉ định rằng việc thành đạt nóng, phải giàu có cho bằng được đôi khi cũng tạo ra loại ác thú núp kín sau bộ mặt niềm nở với đồng loại của mình.
Rất nhiều người trẻ ở Việt Nam muốn nhanh giàu có, nên đã bơm hoá chất vào heo gà và rau xanh, hoặc trở thành những kẻ cướp máu lạnh. Tệ hơn nữa là những kẻ luồn lách và làm giàu bằng gian lận và tham nhũng tiền thuế của nhân dân. Làm giàu và khoe giàu đã trở thành một tín chỉ quan trọng để vuơn lên, leo vào một chuồng trại khác trong xã hội Việt Nam hôm nay. Già hay trẻ cũng vậy. Sự tôn thờ vật chất đã có rất nhiều ví dụ đau lòng như con giết cha mẹ để lấy nhà, lấy đất cho đời thụ hưởng.
Nhưng rồi sự giàu có đó, sự tách biệt hãnh tiến đó bất chợt vỡ toang như những chiếc bong bóng xà phòng khi cơn mưa đem lụt lội đến. Họ nhận ra rằng mặt bằng cuộc sống không an sinh, không có gì cân bằng với giáo dục, môi trường, an ninh… Mọi hợp đồng bảo hiểm chỉ là trò tận thu chứ không hề cứu rỗi lúc tai ương. Mọi lời hứa vĩ đại trôi qua năm tháng, chìm vào hiện thực.
Tương tự như sự kiện “ngày đen tối” của thị trường chứng khoán Việt Nam ảnh hưởng bởi thị trường chứng khoán Trung Quốc, trong tháng 9.2015 với gần 10 tỷ USD bốc hơi trong vài ngày, đã nhắc khéo rằng dường như mọi lâu đài đang được dựng lên bằng ảo tưởng của một đám đông và bằng thực tế đáng giá của một vài kẻ đứng sau cánh gà.
Một chị bạn để dành được ít tiền sau những năm dài vật lộn mưu sinh đã gọi hỏi tôi rằng có cách nào đưa con đi du học nước ngoài thật nhanh. Khi tôi hỏi lý do vì sao chị gấp gáp như vậy, thì câu trả lời - không phải của riêng một người - rằng chị cảm thấy lo lắng và muốn đưa con đến một môi trường sống và giáo dục tốt hơn.
Một thế hệ mới của người Việt đang tự cào cấu với khát vọng đổi thay cuộc sống của mình nhưng bất lực, nên đành chọn cách chạy đi?
Câu chuyện của chị bạn xảy đến cùng lúc với tin những học trò nghèo ở Huế chưa đóng được học phí bị bêu tên dưới cột cờ. Công ty Tôn Hoa Sen kêu gọi từ thiện nhưng chặn nguồn nước của dân thiểu số ở Đạ Mri đế ép lấy đất. Công ty Tân Hiệp Phát thì thay vì xin lỗi người tiêu dùng, bãi nại cho người tố cáo sản phẩm lỗi bị gài bẫy đi tù… thì thay giám đốc người nước ngoài để rửa mặt. Và ở Hà Nội, quan lại chia nhau cai trị trong họ hàng của mình ở huyện Mỹ Đức.
Đã có bao nhiêu người Việt đang gắng làm giàu, chỉ để tìm cách cho mình hay con em mình rời xa quê hương? Chắc không ít, và cũng chắc chắn không phải là một khuynh hướng tạm thời.
Nhan nhản trên các trang báo, cũng như tin nhắn rác, là các dịch vụ môi giới đầu tư hay học nghề… ám chỉ việc ra đi, định cư ở nước ngoài. Một người bạn làm công việc này cho biết lượng người gọi vào, tìm hiểu, làm đơn hay hy vọng đang tăng đến mức kinh ngạc, thậm chí diện EB-5 của Mỹ, đòi hỏi phải có ít nhất 500.000 USD cũng vậy. Trong các bài phóng sự đuợc dịch từ báo nước ngoài cho thấy người Trung Quốc làm ra tiền đang ùn ùn tìm cách chuyển tài sản ra khỏi nước hoặc tìm cách di cư sang các nước phương Tây.
Chỉ tính trong 10 năm, từ năm 2000 đến 2011, Trung Quốc đã chảy máu hơn 3.500 tỷ USD do người giàu Trung Quốc chuyển ra ngoài.
Chưa có con số thống kê nào về người Việt Nam nhưng tin tức vẫn hay hé mở cho biết các đại gia Việt luôn trong thế “an toàn” khi tất cả nhà cửa, tài sản, gia đình… được sắp xếp ở Mỹ, Canada… thậm chí ở ngay Singapore. Cũng như người Trung Quốc, họ đã cố gắng làm giàu bằng mọi cách trên quê hương mình nhưng không chọn tồn tại ở nơi đó.
Điều này có ý nghĩa gì?
Có cái gì đó thật khó nghĩ về cách vồ vập muốn làm giàu của người Việt hôm nay, kể cả cách sau đó họ che mặt ra đi, bất chấp Việt Nam vẫn đang sáng rực tên trên các bản tin bình chọn là một trong những quốc gia hạnh phúc và đáng sống nhất thế giới.
Trong bài thơ Quê Hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân, đời thật đẹp với những chùm khế ngọt. Nhưng dường như một lớp người Việt hôm nay không chỉ tranh nhau hái trái, đốn hạ cây mà âm mưu sở hữu bán cả mảnh đất cha ông đã trồng cây để đầy túi. Nhưng lạ thay, sau đó họ lại lặng lẽ gói ghém ra đi thật xa.
Người Việt đang cố gắng làm giàu thật nhanh rồi như vậy, vì sao?
Xin đừng ai trả lời.
Đừng nói một lời nào cả.
Chúng ta hãy cùng lặng im và suy ngẫm.
November 5, 2025
Bốn bài viết của các tác giả trong nước và một bài trả lời phỏng vấn của nhà văn Hàn Quốc về Nguyễn Huy Thiệp
Mục lục:
1/ Ths. Bùi Thị Kim Phượng: Sự đổi mới quan niệm về con người trong “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp
2/ Nguyễn Mạnh Hà: Sự thức nhận về vai trò, vị trí của nhà văn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
3/ Vương Trí Nhàn: May mắn chúng ta còn có Nguyễn Huy Thiệp
4/ Nguyễn Quang Thiều: Nguyễn HuyThiệp và sự thức tỉnh
5/ Nhà văn Hàn Quốc Bae Yang Soo: Nguyễn Huy Thiệp và tiếng vang sâu lắng tại Hàn Quốc.
***
Ths. Bùi Thị Kim Phượng
SỰ ĐỔI MỚI QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI
TRONG “TƯỚNG VỀ HƯU” CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
Đọc “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp thấy một giọng văn gai góc khi miêu tả thế giới người ấy không khác gì thế giới vật là mấy. Vì đó là những con người: Những con người cô đơn: Người ta gọi thời hiện đại là thế kỷ cô đơn, bi kịch của nỗi cô đơn ngập tràn. Con người mang mặc cảm cô đơn như một bản án ngay từ khi sinh ra. Các nhân vật trong chuyện gắn kết với nhau bằng quan hệ gia đình, xã hội tưởng như sâu sắc và bền chặt nhưng thực ra lại vô cùng lỏng lẻo và dễ đứt.
Tướng Thuấn từ một địa vị cao trở về với cuộc sống đời thường như cá tách khỏi nước, không thể hòa nhập được với cuộc sống mới, nếp cảm nếp nghĩ mới. Ông vẫn giữ nguyên cốt cách người lính. Gánh nặng của truyền thống, lịch sử vẫn đè nặng lên đôi vai của người anh hùng chiến trận. Gánh nặng truyền thống ấy không dễ gì rủ bỏ, tướng Thuấn khi về hưu thì vẫn là “hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng”. Đó là tâm lý chung của một dân tộc yêu quá khứ, yêu những chiến công, không dám đi xa hơn ảnh hưởng của quá khứ, tâm lý không dám vượt ngưỡng. Vì thế tướng Thuẫn cô đơn, câu nói “sao tôi cứ lạc loài” như chứng minh điều đó. Một thế giới ngổn ngang sự vật, đang phân rã, tồn tại lơ lửng bên nhau. Tướng Thuấn chết mà vẫn lạc loài, lạc loài cả khi đã quay về quá khứ vàng son của mình.
Hiện tại không đủ sức làm con người bớt cô đơn, con người không có hoài bão, xã hội không có tương lai, không xin được vào tương lai mà trở về quá khứ cũng không còn chỗ bám trụ. Con người ta biết đi về đâu? Tướng Thuấn cô đơn. Đó là sự cô đơn của ý thức thế hệ. Con người thế hệ, không bi kịch, không cô đơn, là thế hệ yên tâm vào trong lai biết trước, ẩn minh trong cộng đồng. Họ thuộc về một cộng đồng, một cơ chế nhưng đã bắt đầu thấy được chỗ bất ổn của cơ chế và mối liên hệ với cộng đồng trở nên phức tạp hơn nên mới thấy cô đơn. Không thể hòa nhập thực tại bởi thực tại không còn nguyên những giá trị đạo đức truyền thống hoặc là những giá trị hoàn toàn mới mà đấy chỉ là sự lai ghép thảm hại, đánh mất thuần chủng, tinh khiết trong đời sống tình cảm, vật chất của con người. Vấn đề ở đây có phải là bản lĩnh sống?
Các nhân vật trong truyện cùng đều cô đơn, lạc loài với xã hội và với chính mình. Cảm xúc dường như vắt kiệt qua những đoạn đối thoại rời rạc. Đối thoại để hiểu nhau, là nhịp cầu nối giữa người với người nhưng ở đây chỉ còn là những chuỗi âm thanh phát ra loạn xạ. Mỗi người phát ra chuỗi âm thanh của minh theo ý nghĩ vụt đến, lộn xộn, không ăn nhập, không chờ mong sự đáp trả, không ai hiểu ai...Đối thoại mà không khác gì độc thoại, đối thoại cảm. Ví dụ nhu: đoạn đối thoại sau:
Ông nói “Bà ấy cứ xoay ngang dọc trên giường thể này là gay go đấy”. Lại hỏi: “Chị nhận ra em không?”.Mẹ tôi bảo:” Có”. Lại hỏi: “Thế em là ai?”. Mẹ tôi bảo:”Là người”. Ông Bổng bỗng khóc òa lên: “Thế là thương em nhất. Cả làng họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”.
“Ông thợ mộc quát: Sự chúng ông ăn cắp gỗ à?”. Ông Bổng hỏi: “ Ván máy phân?”. Tôi bảo: “ Bốn phân”.Ông Bổng bảo: “Mắt mẹ bộ xa - lông. Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dồi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”
Nhân vật cũng được đơn giản hóa như những kí hiệu, như một bản kê khai lý lịch, không hơn:
“ Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn (...) Tôi ba mươi bảy tuổi, là kĩ sư, làm việc ở viện vật lý. Thuỷ, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ”.
Con người giữa ranh giới cần cái thiện và cái ác: các nhân vật chính không bị lí tưởng hoá, họ cũng có sai lầm cũng phải chiến đấu với phần bóng tối trong mình. Con người như một tiểu vũ trụ đầy bí mật và không thể biết trước, không thể biết hết, những đột biến tâm lí, tính cách, những hành động bất ngờ không thể đoán trước. Tướng Thuẫn là anh hùng trận mạc nhưng không vì thế mà được lí tưởng hoá. Bên cạnh cái cao cả vẫn có những cái tầm thường ở con người được coi nhu chuẩn mực của đạo đức xã hội ấy. Ông cũng bất lực, chỉ biết dở cười dở khóc trước thực tại đời sống hỗn loạn, xô bồ, thô thiển, ô trọc. Cái đạo mạo, trang trọng được đặt bên cạnh lại trở nên mục cười, thảm hại. Nó là chất nghịch dị. Đoạn đám cưới con ông Bỗng là một ví dụ. “Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ". Họ luôn phải cưỡng lại một cái gì đó ở bên trong bản thân, thiện và ác, lí trí và dục vọng, cái riêng và cái chung bên trong con người. Người ta vẫn tốt nhưng cái tốt dường như ít đi xa hơn, luôn phải giữ mình để khỏi làm điều ác. Có nhà văn đã cho rằng. Cái thiện hơn cái ác có nửa vòng bánh xe thôi. Con người có tự do hay không là nhờ nửa vòng bánh xe ấy.
Nhưng nhà văn không phán xét đâu là cái thiện, đâu là cái ác trong con người, không phán xét và không thể phân định một cách rạch ròi được. Bản chất thế giới là vô minh, con người cũng là vô minh. Nguyễn Huy Thiệp còn kêu gọi con người phải biết ghê tởm điều thiện như chính điều ác vậy. Tin tưởng tuyệt đối vào cái thiện như một châu là lại đã đang đặt một chân sang bên kia của cái ác vì “chân lý của cuộc sống là sự hỗn độn, cả phương Đông hỗn độn, cả thể giới hỗn độn. Trong cái hỗn độn đó, chúng ta tìm cách xây dựng những trật tự nhỏ (như gia đình, anh em, bạn bè,...). Còn trẻ, ai cũng tôn trọng trật tự, càng già đi người ta càng có xu hướng chấp nhận sự hỗn độn cao hơn. Vì thực ra. mọi giá trị cũng luôn biến đổi, nên cái hay của ngày hôm nay chưa chắc đã sống đến ngày mai, còn cái dở có cái lúc lại lên ngôi và được ca tụng. Chính vì thế lầm lạc, ngu dốt là chuyện thường tình”. Ông Bổng, Thủy là tốt hay xấu, là thiện hay ác? Bên cạnh cái lạnh lùng, bạc bẽo, man dại vẫn ánh lên tính người, tình người, đôi khi còn khiến người đọc cảm động. Mỗi người mang trong minh mầm mống của mọi tính chất con người và khi thì thể hiện tính chất này, khi thì thể hiện những tính chất khác và thường là hoàn toàn không giống bản thân minh tuy vẫn cứ là chính mình. Con người với tư cách cá nhân như một “nhân vị” độc lập, phải xem xét con người từ nhiều phía, nhiều “tọa độ”, con người “không trùng khít với chính minh”, con người không đơn giản mà phức tạp, nhiều chiều. Ít nhân vật đẹp đẽ, hoàn hảo. Mọi sự lý tưởng hóa sẽ làm cho nó trở nên giả dối, không thật.
Con người vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân: Con người hay xã hội loài người tự đặt cho mình các luật lệ và đau khổ khi vi phạm những luật lệ ấy. Tưởng Thuẫn được cả xã hội ngưỡng vọng. Xã hội tung hô thậm chí sùng bái cá nhân. Cá nhân được tung hô sống dựa vào hào quang ấy. Cái tâm lý cộng đồng ấy cứ phảng phất trong tác phẩm, đôi khi đặc quánh. Không phân biệt đâu là nạn nhân đâu là thủ phạm, ranh giới thật mong manh.
Nạn nhân là nạn nhân bởi tự mặc định cho mình thân phận nạn nhân nên đã gián tiếp trao quyền cho thủ phạm. Thủ phạm tham gia trò chơi ấy cũng đồng thời biến thành nạn nhân. Tưởng Thuấn cũng là nạn nhân của xã hội yêu quá khứ, thần tượng con người, thần tượng những chiến công. Đó là kiểu tư duy chiến tranh tồn tại ngay trong thời bình Người lính coi chiến đấu là lẽ sống Tưởng Thuẫn chấp nhận và những người trong gia đình ông cũng chấp nhận điều này. Họ là nạn nhân. Và khi không thoát ra khỏi vàng hào quang để trở về với cuộc sống, với những gì là đời thường nhất, con người cảm thấy "lạc loài". Xã hội đưa tướng Thuẫn lần đỉnh cao của danh vọng nhưng trên đỉnh cao ấy cũng là sự cô đơn tuyệt cùng. Vinh quang tột cùng, tột cùng cay đắng là như vậy.
Con người như một thực thể đang sinh thành: Cuộc đời là nghiêm túc nhưng cũng là một trò chơi, cuộc thí nghiệm của những cái tôi nhỏ bé. Tham gia trò chơi vừa phải tuân thủ luật chơi nhưng đồng thời bất cứ trò chơi nào cùng chứa đựng những cái bất ngờ, ngẫu nhiên ngoài mọi dự đoán và tính toán của con người. Trò chơi vẫn tiếp tục ngay cả khi nhân vật chết đi. “Sau đó nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu". Dòng chảy cuộc sống vẫn tiếp tục, những bi hài nhân sinh vẫn tiếp tục, nhưng khả năng mới lại được mở ra, không có chân lý cuối cùng. Con người không bao giờ là hoàn tất và trùng khít với chính bản thân nó, nó luôn trong trạng thái sinh thành, luôn là một ẩn số. Tác phẩm luôn mời gọi sự đối thoại và nuôi dưỡng khả năng ngạc nhiên của con người!
Kết luận
Nguyễn Huy Thiệp tỏ ra là người rất thành công trong việc xây dựng con người. Ông len lỏi vào những nẻo sâu kín nhất trong nội tâm nhân vật, nhìn thấy những biểu hiện dù nhỏ nhất lóe lên trong tâm hồn họ. Tướng Thuẫn lạc lõng trong chính gia đình của mình giữa độ chênh của 2 thế hệ với 2 thời kỳ khác nhau.
Nguyễn Huy Thiệp hay sử dụng cách nói cực đoan, nhưng những suy nghĩ của ông về vai trò, sứ mệnh của nhà văn, của văn học nghệ thuật là điều đáng để cho chúng ta trăn trở, day đi dứt lại, dù tác giả tự nhận văn chương của mình chỉ như những ngọn gió. Sự thay đổi quan niệm về nhà văn, về vai trò văn học nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp đã có tác dụng tích cực trong phát huy cá tính sáng tạo của nhà văn, trả văn học về lại với quy luật phát triển và những đặc trưng đích thực của nó. Nguyễn Huy Thiệp dũng cảm nhìn vào sự thật để trình bày hiện thực đúng theo những gì mình thấy, những gì mình nghĩ. Tác phẩm của ông đã dạy chúng ta rằng “Cuộc sống như một dòng sông, có cả sự trong veo tinh khiết đến ngỡ ngàng của nước, có cả rác rưởi đang trôi”.
Nguyễn Mạnh Hà:
SỰ THỨC NHẬN VỀ VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA NHÀ VĂN
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
---
Vương Trí Nhàn
MAY MẮN CHÚNG TA CÒN CÓ NGUYỄN HUY THIỆP
===
Trong văn học Việt Nam đương thời, Nguyễn Huy Thiệp đứng một mình, đứng riêng một chỗ. Nguyễn Huy Thiệp viết do ông thấy tự mình phải viết và không viết không được.
Câu trả lời nước đôi
hay là một cách nghĩ hiện đại
Người ta sớm thấy toát ra trong các truyện ngắn của ông những ý tưởng đại loại như “cuộc đời thật là dị hợm kỳ cục, con người không đáng tin, nhưng không tin thì làm sao mà sống nổi”, “cuộc đời rất buồn nhưng cuộc đời vẫn rất đẹp.”
Đọc Tướng về hưu, Không có vua... thấy Nguyễn Huy Thiệp đã rất lõi đời, nhìn đời thấy không có gì đáng sống, nhưng người ta vẫn phải sống với nó. Về sau đọc loại như Nguyễn Thị Lộ hay Sang sông thì lại thấy Nguyễn Huy Thiệp vẫn còn có cái bình thản tin đời, tin cả cái hào sảng trong sáng của đời.
Ông hồn nhiên suy nghĩ chứ không cố tỏ ra triết lý, tỏ ra sâu sắc. Cũng tức không cố tỏ ra hiểu đời mà thật đã rất hiểu đời.
Ông sống với tư tưởng của muôn đời khi đề cập đủ chuyện nào vấn đề thiện và ác, làm người thế nào, nào câu hỏi cuộc sống là tốt đẹp hay đáng phỉ nhổ...
Bao giờ câu trả lời của Nguyễn Huy Thiệp cũng song trùng, vừa thế này vừa thế kia (như trong vật lý lượng tử người ta bảo bản chất của vật chất vừa là sóng vừa là hạt), cuộc đời vừa đáng yêu vừa đáng ghét, vừa đáng phỉ nhổ vừa đáng trân trọng.
Ngay trong một truyện ngắn con người hiện ra "nhếch nhác toàn tập" như Không có vua thì câu người ta nhớ nhất là câu "Thương lắm" của cô Sinh, ở cuối truyện.
Một mình một cõi
Trước Nguyễn Huy Thiệp, người viết văn viết báo ở ta luôn luôn bị môi trường hoạt động của mình chi phối, người nọ nhìn người kia mà sống và làm nghề.
Chúng tôi thường trông đàn anh của mình viết rồi viết theo, không vượt được hoàn cảnh.
Nguyễn Huy Thiệp chẳng nhìn ai cùng thời, ông sống nhiều hơn với các nhà văn lớp trước từ Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương trở đi tới Nam Cao, Nguyễn Bính, Vũ Trọng Phụng...
Rõ ràng Nguyễn Huy Thiệp đối thoại, trò chuyện với rất nhiều đấng bậc, những người làm vẻ vang cho văn học Việt Nam, những nhà văn thực sự.
Phần lớn nhà văn hiện nay bắt đầu là những chiến sĩ văn nghệ, với vai đó họ là những công chức cần thiết cho xã hội. Về sau một số họ lại thường tuyên bố chỉ sang tác cho vui. Nhưng theo tôi trước sau họ vẫn không phải là "làm" văn học. Hoặc nói chính xác hơn họ không làm thứ văn học có thể tiếp nối được dòng mạch mà những nhà văn lớn của Việt Nam đã tạo ra được trong lịch sử, thứ văn học của muôn đời.
Viết đúng về cái ác
chính là khơi dòng cho sự nhân hậu
Trước khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện, văn học thường xa lạ với các vấn đề trừu tượng nhất là các vấn đề nhân bản.
Đến Nguyễn Huy Thiệp, những phạm trù của muôn đời như chuyện thiện và ác trong con người lại là ngón sở trường của ông.
Khi thấy Nguyễn Huy Thiệp viết về cái ác thì người ta kêu ầm lên rằng không nên làm thế, không cần viết về cái ác mà nghệ thuật chỉ viết về cái thiện là đủ thậm chí cho viết về cái ác là tội lỗi.
Nguyễn Huy Thiệp không thể làm khác. Hình như trong thâm tâm ông cảm thấy cần viết về cái ác, phải làm thế mới đẩy lùi nó đi được.
Cái ác trong văn Nguyễn Huy Thiệp dai dẳng, bao trùm. Và viết về cái ác chính là cái nhân hậu của Nguyễn Huy Thiệp, lòng nhân hậu của những nhân vật lớn, cái nhân hậu xa lạ với khuôn mẫu sự nhân hậu đương thời.
Đó là sự nhân hậu lặn sâu bên trong.
Lòng tin của ông vào con người không bao giờ mất. Lồng yêu thương con người của ông bắt đầu bằng sự phê phán, ông miêu tả hết cái nhếch nhác, tầm thường, cái khốn nạn, cái không đáng yêu của cuộc đời, nhưng chính bằng cách đó ông lại làm cho người ta hiểu và yêu đời hơn và có thể làm người tốt hơn.
Một số người hiện nay cũng viết về cái ác nhưng không có cái tâm -- với cả nghĩa lớn là sự hiểu biết về cuộc đời thấu đáo -- của ông nên không thể đạt hiệu quả.
Không gục ngã với nghĩa
không thay đổi theo thời
Nguyễn Huy Thiệp lạ lắm, ông sống hòa hợp với các đồng nghiệp mà hình như vẫn đứng ngoài giới nhà văn đương thời và có lẽ điều đó cắt nghĩa được vì sao Nguyễn Huy Thiệp chịu đựng giỏi được như thế.
Tôi không thấy ai, trong suốt cuộc đời làm nghề có tài chịu đựng - có cái kiên cường dám là mình mà vẫn trụ vững với thời gian - được như Nguyễn Huy Thiệp.
Ông vượt qua được những tàn bạo của đời có lẽ cũng vì ông sớm đạt được cái đạo là biết sự nổi tiếng của mình phải trả giá rất nhiều. Một thứ bản năng thiêng liêng mách bảo ông phải chấp nhận những đau khổ thì mới phải đạo, và Nguyễn Huy Thiệp đã không đầu hàng.
Xã hội hiện nay thù ghét nhiều cá tính sang trọng, tiêu diệt nhiều lối suy nghĩ sáng suốt và chính trực. Con người chen cạnh nhau ràng buộc nhau nhiều quá, dù bề ngoài có vẻ khác nhau thì vẫn giống nhau quá. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp viết không để chen cạnh ai, không viết để lấy giải thưởng. Ông chỉ là ông một cái tôi của từng trải và các loại tri thức học vấn thứ thiệt. Nên nhớ ông từng là giáo viên lịch sử thời môn học này vẫn còn thiêng liêng và nghiêm túc.
Tôi vẫn nghĩ, thật may mắn cho mình được sống cùng thời với Nguyễn Huy Thiệp. May mắn chúng ta còn có Nguyễn Huy Thiệp.
Thiên Điểu ghi
---
Nguyễn Quang Thiều:
NGUYỄN HUY THIỆP VÀ SỰ THỨC TỈNH
Nguyễn Huy Thiệp đã “đâm một nhát dao” xuyên qua tim người đọc. Nhưng tôi nhìn thấy ông gục ngã đầu tiên.
Tôi đọc được truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp khi đang học ở Cuba. Truyện ngắn Vàng Lửa. Đó là năm 1987. Năm đó tôi 30 tuổi và đã học ở Cuba được ba năm. Hồi đó sinh viên chúng tôi chẳng hề có thông tin gì từ trong nước, ngoài những lá thư của gia đình mà bốn, năm tháng mới nhận được một lần hoặc thi thoảng mò đến sứ quán Việt Nam nghe tin từ trong nước. Chính vì thế mà tôi đã “ăn trộm” được một tờ báo Văn Nghệ ở sứ quán. Trong tờ báo Văn Nghệ ấy có in một truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Tôi đã đọc nhiều lần truyện ngắn ấy. Tuy Vàng Lửa chưa phải là truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp, nhưng có một điều gì đó đặc biệt đã thay đổi tôi khi nghĩ về văn xuôi Việt Nam đương đại. Trước đó tôi hầu như chưa biết nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhưng lại biết khá nhiều về văn học Việt Nam hiện đại. Trong khi tôi đang “bình yên” trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam thì Nguyễn Huy Thiệp đã “phá vỡ” sự “bình yên” ấy. Ông làm đảo lộn suy nghĩ của tôi. Văn chương của ông đã cuốn tôi vào thế giới mà ông dựng lên không thể cưỡng lại. Một thế giới không có trong văn xuôi Việt Nam trong vài chục năm cho đến trước khi ông xuất hiện.Đã có cả hàng vạn trang giấy viết về văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Và chắc chắn rằng, mỗi thế hệ bạn đọc mới, mỗi thế hệ các nhà văn mới, các nhà phê bình mới và các nhà nghiên cứu văn chương mới lại tiếp tục mang đến những cái nhìn mới và đa chiều về văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Và lúc này, tôi muốn nói một chút về văn chương của ông trong cái nhìn hẹp, cái nhìn có một phần đối chiếu với đời sống xã hội Việt Nam. Đã có người tức giận hỏi : “Nếu mang các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp vào trường học thì người ta sẽ dạy cho học sinh điều gì từ những tác phẩm đó?”. Câu hỏi đó đã xuất phát từ một cái nhìn văn xuôi trước khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện và xuất phát từ một cách nhìn khá đơn điệu và đơn tuyến về hình thức và nội dung các tác phẩm văn xuôi mà chúng ta thường gọi là “có hậu”. Vậy thế nào là văn chương “có hậu?”. Nó không phải là thứ văn chương làm cho chúng ta thỏa mãn, nó không ru ngủ chúng ta và nó không làm chúng ta đợi chờ vào một vận may của số phận. Trong cái nhìn của tôi, văn chương “có hậu” là làm cho người đọc nhận ra sự thật của chính mình cho dù đau đớn và cay đắng đến đâu và phải đối đầu với sự thật ấy. Chỉ có sự thật mới thức tỉnh và mách bảo con người chọn được lối đi của mình.Văn chương Nguyễn Huy Thiệp lúc nào cũng làm tôi đau đớn và trong đau đớn người ta thường bừng tỉnh. Một đặc điểm vô cùng quan trọng trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp là làm cho người ta bừng tỉnh về một đời sống mà họ đang sống trong đó. Khi những truyện ngắn như Tướng về hưu, Không có vua... xuất hiện, có những người đã gọi ông là kẻ bịa đặt, kẻ bôi đen và kẻ làm đảo lộn những giá trị truyền thống. Hãy đọc một đoạn thoại trong truyện ngắn Không có vua của ông: Đoài bảo: "Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết thì hơn". Tốn khóc hu hu. Cấn hỏi: "Ý chú Khảm thế nào?". Khảm bảo: "Các anh thế nào thì em thế". Khiêm hỏi: "Anh định thế nào?". Cấn bảo: "Tôi đang nghĩ". Đoài bảo: "Mất thì giờ bỏ mẹ, ai đồng ý bố chết giơ tay. Tôi biểu quyết"...Không ít người choáng váng với những đoạn thoại như thế của nhân vật Nguyễn Huy Thiệp trong nhiều truyện ngắn của ông. Nó đưa người đọc vào một thách thức đôi lúc quá sức chịu đựng thông thường của họ. Cái gì đang xảy ra trong đoạn đối thoại trên? Sự băng hoại đạo đức hay lòng nhân ái? Câu hỏi này không phải bây giờ mới được hỏi. Nó đã được đặt ra từ rất lâu trong đời sống nhân tính trên thế gian này. Sau câu hỏi ấy xuất hiện hai câu hỏi khác. Câu hỏi thứ nhất: “Sao những đứa con đó lại mất nhân tính như thế khi muốn để bố chết?”. Câu hỏi thứ hai: “Sao những đứa con lại mất nhân tính như thế khi bắt người bố phải sống trong đau đớn và sống một cuộc sống vô nghĩa?”. Lúc này, những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp không nhằm thỏa mãn người đọc như quá nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam trước đó. Nó đẩy bạn đọc vào một cuộc chiến tự vấn mà họ không muốn cũng phải tham dự. Người đọc phải trả lời cho chính họ câu hỏi mà cuộc đời đặt ra. Nó bắt tất cả người đọc phải lộ diện và không ai được lẩn trốn. Không ai được đứng ngoài cuộc để rao giảng đạo đức cho người khác. Nếu trong đoạn thoại ấy, một đứa con không nói “Ai đồng ý bố chết giơ tay” thì người đọc có thể lướt qua tâm trạng của những đứa con trước một hoàn cảnh khó xử. Nhưng ông đã đẩy tới tận cùng và nó “phá vỡ” người đọc. Cách sử dụng lời thoại như vậy rất đặc trưng của Nguyễn Huy Thiệp. Khi đọc truyện ngắn này cách đây mấy chục năm, không ít người trong chúng ta đã tuyên bố Nguyễn huy Thiệp là một nhà văn “tàn nhẫn”. Nhưng đến bây giờ, đã nhiều người trong họ bắt đầu nghĩ lại bản chất của lòng nhân ái là gì. Câu hỏi của những đứa con trong đoạn thoại trên bây giờ là câu hỏi của nhiều đứa con trong không ít gia đình chúng ta khi đứng trước hoàn cảnh cha mẹ bị bạo bệnh. Những câu hỏi ấy thực sự làm cho những đứa con hoảng loạn và sợ hãi, nó cho thấy sự bất lực của những đứa con không cứu nổi cơn đau thân xác bởi bệnh tật của người cha. Và những quan niệm hẹp hòi, nông cạn, về nhân tính hay cụ thể ở đây là chữ hiếu đôi khi gián tiếp đày đọa cha mẹ mình, thậm chí đứa con đã trở thành kẻ ác. Tôi có một đứa con gái lấy chồng rất xa. Thời gian đầu, ý nghĩ đứa con gái yêu thương của mình lấy chồng quá xa đã làm tôi mất ngủ. Nhưng tôi đã đi qua được sự khủng hoảng tâm lý ấy khi nhận ra rằng: cha mẹ chỉ thấy hạnh phúc khi những đứa con có một cuộc sống bình yên, cho dù chúng ở rất xa. Còn nếu chúng ở cùng họ trong một ngôi nhà nhưng lúc nào cuộc sống của chúng cũng đầy đe dọa và bất trắc thì họ không thể nào có hạnh phúc khi nghĩ về những đứa con của mình. Một người con có hiếu là biết làm cho cha mẹ yên lòng. Đây không phải là một quan niệm mới về chữ hiếu, đó chính là bản chất của nó mà đến lúc này không ít người trong chúng ta mới nhận ra.Trong truyện ngắn Tướng về hưu, có những chi tiết đã làm cho người đọc rùng mình đến buồn nôn. Một trong những chi tiết ấy là người ta nấu nhau thai nhi cho lợn ăn. Nguyễn Huy Thiệp đã “đâm một nhát dao” xuyên qua tim người đọc. Nhưng tôi nhìn thấy ông gục ngã đầu tiên. Ông là kẻ đi loan báo về một cái chết trong đời sống nhân tính Việt. Ông là kẻ đau đớn, là kẻ rùng mình hoảng sợ trước tiên thì sau đó ông mới có thể làm cho người đọc đau đớn, rùng mình và hoảng sợ. Nó ám ảnh người đọc để họ không thể thỏa mãn như đọc một cuốn sách giải trí và cho phép mình quên đi chính những câu chuyện mà mình chứng kiến. Có thể trong thực tế đời sống người ta không làm chuyện đó, nhưng nhà văn phải đẩy câu chuyện đến tận cùng sự thật bằng chính sự sáng tạo đôi khi tưởng như giá lạnh của mình. Và chỉ như thế mới đủ năng lượng phóng mũi tên “tác phẩm” chạm đến sự thật và chạm đến trái tim. Ngày nay, mức độ tội ác của con người đã lên đến đỉnh điểm. Qua những vụ án mà báo chí vẫn hàng tuần đưa lên làm cho chúng ta kinh hãi hơn cả khi chúng ta đọc những chi tiết như vậy trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mấy chục năm về trước. Từ mấy chục năm trước, Nguyễn Huy Thiệp đã dự báo sự suy đồi đạo đức của con người đến mức làm cho không ít người hồi đó và ngay cả bây giờ nổi giận và kết tội ông như một “tội phạm” chà đạp lên những quy chuẩn đức hạnh người Việt. Nhưng trong cách nhìn của tôi, ở một phía, Nguyễn Huy Thiệp chính là một trong những người bị tổn thương nặng nề nhất, bị xúc phạm nhất khi phải chứng kiến sự đổ vỡ nhân tính ấy. Nhân vật Bổng trong Tướng về hưu là một kẻ tưởng như không thể nào có được những cảm xúc nhân văn nữa nhưng đã nức nở khi được gọi là người: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”. Khi viết như vậy, là khi nhà văn bước đến và tìm thấy, và thừa nhận nhân tính trong một con người mà hầu như cả xã hội khinh bỉ và vứt đi. Nhà văn đã cứu vớt tâm hồn của một người như Bổng. Tôi thấy nước mắt chảy trong những dòng ông viết. Chủ nghĩa nhân văn không thể là những gì khác thế được.Nhiều bạn đọc hồi đó đã rùng mình kinh hãi khi nghĩ đến một gia đình truyền thống đang bị phá vỡ như trong KHÔNG CÓ VUA và khi chứng kiến cảnh nấu nhau thai nhi cho lợn trong TƯỚNG VỀ HƯU. Và chỉ sau mấy chục năm, cái rùng mình sợ hãi ấy đã trở thành sự thật trong không ít gia đình Việt Nam. Văn chương Nguyễn Huy Thiệp là văn chương làm cho người ta đau đớn, làm cho người ta phải mở to mắt nhìn vào con người họ, làm cho người ta phải thừa nhận sự thật. Và khi con người đau đớn, con người thừa nhận sự thật thì con người mới có cơ hội trưởng thành. ---
PHỤ LỤC:
Nhà văn Hàn Quốc Bae Yang Soo
NGUYỄN HUY THIỆP VÀ TIẾNG VANG SÂU LẮNG TẠI HÀN QUỐC.
Các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã vượt ra ngoài biên giới. Lần này, là tiếng vang sâu lắng trong lòng độc giả Hàn Quốc.Là một nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, tôi thực sự vui mừng khi đón nhận các tác phẩm văn học Việt Nam, đặc biệt là các tác phẩm đã dịch sang tiếng Hàn. Mới đây, một bản dịch tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã được NXB Văn Học và Trí Tuệ (문학과지성사/Moonji Publishing Company) xuất bản ngày 16-3 tại Hàn Quốc. Nhân dịp này, tôi đã trò chuyện với dịch giả của cuốn sách, tiến sĩ Kim Joo-Young.*Điều gì khiến cô dịch cuốn sách này?Tôi dịch là vì muốn chiêm nghiệm sâu sắc hơn về tác phẩm Chảy đi sông ơi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Khi tôi đang theo học nghiên cứu sinh của khoa văn học Trường đại học KHXH&NV TP.HCM, chồng tôi cũng theo học thạc sĩ cùng khoa. Qua anh, tôi biết là trong lớp, anh đã được nghe giảng khá sâu về tác phẩm này. Tôi từng nghĩ rằng nếu đọc thì chỉ nắm được ý chính thôi, nếu dịch thì tôi có thể hiểu biết cụ thể, sâu sắc hơn về tác phẩm này trên nhiều phương diện. Điều đó thôi thúc tôi quyết tâm dịch truyện ngắn này sang tiếng Hàn.*Dịch và xuất bản bản là hai việc khác nhau. Lý do cô quyết định xuất bản?Sau khi dịch xong tác phẩm Chảy đi sông ơi, tôi bắt đầu quan tâm đến tác phẩm Không có vua và tiếp tục dịch luôn. Tiếp nối quá trình hoàn thành hai bản dịch tương đối dài hơi này, tôi bắt đầu quan tâm đến việc xuất bản một quyển sách dịch. Tuy nhiên, những người trong giới xuất bản xung quanh tôi không hứng thú với tác phẩm không có chủ đề "chiến tranh". Tôi đã gửi hai bản dịch trên đến tạp chí Asia để hỏi có in không nhưng họ từ chối. Rất may là sau đó, bản dịch Không có vua đã được đăng trên Các nhà văn (작가들 Writers) - tạp chí của Hội Nhà văn Incheon, với sự giới thiệu của nhà văn Kim Nam-il.*Có những khó khăn như vậy nhưng cuối cùng cũng xuất bản được, xin cô kể lại.Để tháo gỡ những khó khăn trên, tôi tìm nguồn tài trợ khác và đăng ký tham gia Dự án hỗ trợ dịch thuật văn học nước ngoài Daesan. Nếu được dự án này hỗ trợ, các bản dịch sẽ được xuất bản ngay tại Hàn Quốc. May mắn thay, năm ấy, tức là năm 2019, một số tác phẩm văn học thiểu số (của các nước không phải lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức...) đã cùng được chọn. Sở dĩ tôi nói may mắn là vì Dự án hỗ trợ dịch thuật văn học nước ngoài Daesan thường chủ yếu chọn các tác phẩm viết bằng các thứ tiếng Anh, Nga, Pháp, Nhật, Trung...*Trong quá trình dịch, cô mất bao lâu và làm thế nào để giải quyết vấn đề bản quyền?Vì tôi có quen biết với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ khi đăng truyện Không có vua trên tạp chí Các nhà văn nên ngay khi được chọn vào dự án hỗ trợ dịch thuật, tôi đã giúp thương thảo hợp đồng bản quyền giữa nhà xuất bản và tác giả. Suốt thời gian dịch truyện, tôi giữ liên lạc với tác giả, chủ yếu qua tin nhắn. Thời gian dịch mất khoảng 1 năm rưỡi, từ 2018 - 2019, lâu vì trong thời điểm ấy tôi vừa dịch tác phẩm vừa bảo vệ luận án tiến sĩ.*Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều truyện ngắn lắm, cô chọn ra 15 tác phẩm như thế nào?Tôi chọn ra 15 tác phẩm để dịch. Sau khi tìm hiểu qua nhiều tư liệu, tôi chọn ra những tác phẩm nổi tiếng hoặc đáng dịch, loại trừ những tác phẩm liên quan đến lịch sử và văn học trong số truyện ngắn của tác giả. Ban đầu, Daesan không chấp nhận các tác phẩm do dịch giả lựa chọn, biên tập. Tuy nhiên, đối với trường hợp văn học Việt Nam, họ cho phép dịch giả tự chọn. Tất nhiên tôi đã giải thích tình huống xuất bản ở Việt Nam và họ đã đồng ý.*Điều khó nhất khi dịch văn chương Nguyễn Huy Thiệp là gì?Vì chuyên ngành của tôi là dịch thuật văn học nên tôi không thể lười biếng trong việc dịch tác phẩm. Nếu tôi cảm thấy không chắc chắn về điều gì dù là nhỏ nhất, tôi cũng có thể sai, nên tôi luôn hỏi những người Việt Nam quen biết. Tôi dành nhiều thời gian để nghiên cứu dữ liệu và liên tục tham khảo thêm tri thức trên Internet.*Tác phẩm đáng nhớ nhất mà cô dịch là gì?Tôi nghĩ tác phẩm đáng nhớ nhất là Chảy đi sông ơi. Nhờ tác phẩm này mà tôi dịch được cả cuốn Tuyển tập tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp... Khi dịch mấy trang cuối, tới cảnh nhân vật chính bật khóc, tự nhiên tôi cùng rơi nước mắt. Đó là tác phẩm có ý nghĩa nhất đối với tôi, vì vậy tôi đã đặt nó ở vị trí đầu tiên trong bản dịch. Tôi cũng tự quyết định thứ tự sắp xếp các tác phẩm, nhà xuất bản tôn trọng lựa chọn và quyết định của tôi về mọi mặt.*Độc giả Hàn Quốc phản hồi thế nào sau khi xuất bản?Đã hai tuần kể từ khi bản dịch được xuất bản, tôi rất vui vì độc giả Hàn Quốc phản hồi tốt hơn tôi nghĩ. Thẳng thắn mà nói, các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp có thể không phù hợp với thị hiếu của độc giả Hàn Quốc ngày nay. Tuy nhiên, cũng giống như các tác phẩm của ông ấy đã vượt ra ngoài biên giới và gây được tiếng vang với người phương Tây, tôi tin rằng chúng sẽ có thể gây được tiếng vang lặng lẽ mà da diết, âm thầm nhưng sâu lắng trong lòng độc giả Hàn Quốc.*Xin cảm ơn cô.Bài trả lời phỏng vấn của TS. Kim Joo Young do GS.TS Bae Yang Soo thực hiện đăng trên báo Tuổi trẻ Cuối tuần ngày 14/4/2023.
November 1, 2025
Việt Nam 1954: Giữa 'Chiếm lĩnh' và 'Giải phóng', ký ức về một cuộc tiếp quản - Uyên T. Nguyễn
Chúng tôi biết được bài viết dưới đây nhờ đọc tr Fb của nhà sử học Alex Thai 27-10-2025. Đoạn giới thiệu cũng là của Alex Thai, chúng tôi chỉ mạn phép thay đổi vài chi tiết nhỏ.
Cuối bản A Th này có ghi nguồn Uyen Nguyen https://www.facebook.com/share/p/17Zm...
Thành thực cám ơn và xin lỗi tác giả Alex Thai vì tôi đã không ghi rõ điều này ngay từ đầu
Về nội dung bài viết dưới đây, chúng tôi có một thắc mắc nhỏ.
Trong bài có nói tới một nhân vật tên là Nguyễn Văn. Tôi hiểu đây có thể là tên giả, nhưng ở đoạn dưới lại nói ông dạy nhạc ở trường Chu Văn An. Nếu thế thì đúng là nhạc sĩ Nguyễn Văn Qùy rồi. Với tôi ông còn là giáo viên dạy lớp nhất ở trường tiểu học Thụy Khuê niên học 1953-1954.
Trong bài có chi tiết Nguyễn Văn cùng các cán bộ nội ứng khác bị đưa đi "cải tạo" ở nông thôn .
Tôi muốn tác gỉ nói rõ hơn vì lúc ấy thầy Qùy rất yếu.
***************
Tác giả Uyen T. Nguyễn
Đại học Quốc gia Singapore
Tiến sĩ Uyên T. Nguyễn là một nhà sử học nghiên cứu về Việt Nam giaiđoạn hiện đại. Cô hiện là Giảng viên tại Khoa Lịch sử, Đại học Quốc giaSingapore (đến tháng 12 năm 2025) và từ tháng 1 năm 2026 sẽ đảm nhiệm vị tríTrợ lý Giáo sư Lịch sử và Ngôn ngữ & Văn minh Đông Á tại Đại học Harvard.Các công trình nghiên cứu của cô tập trung vào các quá trình chuyển đổi lịch sửthông qua những góc nhìn liên ngành và so sánh. Luận văn sau dựa trên một phầnnghiên cứu chuyên khảo của cô về quá trình tiếp quản đô thị ở miền Bắc Việt Namgiai đoạn 1949-1958 với nhan đề Đô thịdấu yêu, Đô thị sa đọa: Cuộc tiếpquản của chính quyền cộng sản và những biến đổi xã hội chủ nghĩa ở các đô thịmiền Bắc Việt Nam (1949-1958) [Beloved City, Depraved City: CommunistTakeovers and Socialist Transformations in North Vietnam's Cities (1949-1958)].
--
Người cộngsản đã tiếp quản chính quyền vào năm 1954 như thế nào
và có gì tương đồng vớigiai đoạn sau 30 tháng 4 năm 1975?
Sự sụp đổ củaSài Gòn trước lực lượng cộng sản tháng 4 năm 1975 thường được xem như một sựkiện độc nhất và mang tính quyết định trong cuộc Chiến tranh Việt Nam – một"cuộc chiếm lĩnh" bất ngờ hay một "sự kiện giải phóng", tùytheo góc nhìn của mỗi người.
Tuy nhiên,trên thực tế, các cuộc tiếp quản đô thị bởi các lực lượng cộng sản là một loạisự kiện đã xảy ra và lặp lại nhiều lần trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20.
Vào năm 1954– hai thập kỷ trước biến cố nổi tiếng ở miền Nam – một cuộc chuyển giao kịchtính tương tự đã diễn ra khi lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) do HồChí Minh lãnh đạo tiếp quản Hà Nội từ Quốc gia Việt Nam (État du Viêt Nam;QGVN) vốn được Pháp hậu thuẫn.
Luận văn nàynhìn lại khoảnh khắc ấy, tập trung vào quá trình tiếp quản miền Bắc Việt Nam vềmặt hành chính thông qua chuyển giao chuyên môn và chính trị hóa công sở, giáodục và văn hóa.
Luận văn tậptrung vào Hà Nội giai đoạn 1954-1960 với mục đích giúp cho các độc giả vốn quenthuộc hơn với các sự kiện ở Sài Gòn năm 1975 có thể đưa ra những so sánh vànhận định dựa trên trải nghiệm và kiến thức cá nhân – qua đó, tác giả muốn đưara gợi ý rằng trải nghiệm của thập niên 1950 đã định hình chiến lược và kỳ vọngcủa chính quyền cộng sản cho các đợt tiếp quản đô thị sau này, đặc biệt là SàiGòn năm 1975.
Như vậy, thayvì nhìn nhận các cuộc tiếp quản như các sự kiện đơn lẻ hoặc như các điểm kếtthúc của các cuộc chiến quân sự (với một bên thắng cuộc và một bên thua cuộc),chúng ta có thể nhìn nhận các sự kiện này như các diễn biến tuần tự trong mộtquá trình lâu dài, nơi mà cả chính quyền lẫn xã hội Việt Nam học cách giảiquyết xung đột và chung sống sau chiến tranh – một quá trình vẫn còn tiếp diễntới ngày nay.
Khúc khải hoàn của cuộc tiếp quản
Chính quyềnBắc Việt gọi cuộc tiếp quản Sài Gòn năm 1975 là một "khúc ca khảihoàn" – khi quân cộng sản giành chiến thắng và đưa miền Nam "trởvề" với Tổ quốc. Nhưng "khúc ca khải hoàn" này đã được xướng lênhai lần trước đó. Tháng 8 năm 1945, sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng Minh,là lần đầu tiên chính quyền Hồ Chí Minh lên nắm quyền chính thức trên lãnh thổViệt Nam – một cuộc chuyển giao chính quyền mà Hồ Chí Minh đã miêu tả trongTuyên ngôn độc lập: "Dân ta đã lấy lại nước Việt Nam."
Sau Tuyênngôn độc lập đó, chính quyền VNDCCH đã kiểm soát Hà Nội trong một thời gianngắn trước khi quân Pháp quay trở lại vào năm 1946, và chính quyền QGVN đượcthành lập vào năm 1949. Khi cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúcnăm 1954, chính quyền Hồ Chí Minh gọi cuộc tiếp quản Hà Nội là một cuộc khảihoàn.
Tuy nhiên,trong lần "trở về" này, chính quyền VNDCCH không hẳn là chính quyềnViệt Minh đã được lập nên vào năm 1945 – bởi phần lớn các thành viên khôngthuộc phe cộng sản đã bị loại bỏ từ lâu.
Thêm vào đó,số phận các thành phố lớn ở phía Bắc như Hà Nội và Hải Phòng đã được định đoạttại Hội nghị Genève - có nghĩa là cuộc chuyển giao chính quyền tại các thànhphố lớn không phải là kết quả của một cuộc nổi dậy đô thị tự phát như lực lượngcách mạng đã từng kỳ vọng (giống như những gì đã xảy ra vào tháng tám năm 1945)– mà là một quá trình chuyển tiếp được dàn dựng và tiến hành một cách cẩn thận.
Nói cáchkhác, bản thân xã hội đô thị tiếp nhận sự "trở về" của chính quyềnVNDCCH cũng không còn giống như chín năm trước đó.
Khi nhìn lạiđại cảnh chia cắt Nam–Bắc trong 20 năm từ khi tiếp quản Hải Phòng (1955) đếnkhi Sài Gòn thất thủ (1975), người ta thường tập trung vào hai con đường pháttriển khác nhau mà miền Bắc và miền Nam đã lựa chọn.
Nhưng chínhcác mô hình được thiết lập từ thập niên 1950 – cả ở miền Bắc cộng sản và miềnNam chống cộng – đã định hình bối cảnh cho hồi kết của cuộc chiến.
Ở cả hai thờikỳ, thập niên 50 và thập niên 70, các lãnh đạo cách mạng phải quản lý nhữngthành phố mà dân cư còn hoài nghi hoặc dửng dưng với chủ nghĩa cộng sản và nơinền nếp xã hội, hành chính, đời sống đô thị đã phát triển lâu đời với nguồn gốcở các chế độ trước.
Nhà nước như một 'dinh thự'
Để hình dungquá trình chuyển giao quyền lực ở Hà Nội 1954, ta có thể mượn phép ẩn dụ màBenedict Anderson đã sử dụng trong cuốn Cộngđồng tưởng tượng (Imagined Communities): nếu nhà nước và bộ máy của nó làmột khu dinh thự, thì một chính quyền mới là chủ nhân mới, kế thừa dinh thự ấytừ chủ nhân cũ.
Trong lịch sử hiện đại Việt Nam, "dinhthự" ấy đã nhiều lần đổi chủ – triều Nguyễn, chính quyền thuộc địa Pháp,quân Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim, QGVN – và mỗi người chủ lại vận hành vàthay đổi hạ tầng của dinh thự theo cách riêng.
Khi chínhquyền VNDCCH tiếp quản Hà Nội năm 1954, họ kế thừa từ QGVN một bộ máy hànhchính khá hoàn chỉnh với đội ngũ công chức Việt chuyên nghiệp, và giống như cácchủ nhân trước đó, họ không phá bỏ dinh thự mà tìm cách làm chủ nó.
Dù chínhquyền cách mạng thường nói về sự lột xác hoàn toàn, trên thực tế, quá trìnhchuyển giao thường giống như kỹ thuật "ghép cành" trong làm vườn:chính quyền mới không loại bỏ hoàn toàn bộ máy cũ mà ngược lại,"ghép" mình lên cấu trúc của bộ máy cũ – một tiến trình phức tạp vàđôi lúc đầy khó khăn.
Sự chuẩn bị kỹ lưỡng và bối cảnh đặc biệt
Như đã nói ởtrên, việc tiếp quản Hà Nội năm 1954 không hề bất ngờ. Sự kiện này xảy ra nhiềutháng sau Hiệp định Genève, qua đó, bộ máy Pháp-QGVN rút lui theo lịch trìnhđược định sẵn, giúp cho phía VNDCCH có thời gian để chuẩn bị kỹ lưỡng. Khônggiống các lần chuyển giao chính quyền trước Hiệp định (thường gấp gáp và thiếuchuẩn bị), cuộc chuyển giao năm 1954 ở Hà Nội cũng được xây dựng trên kinhnghiệm từ nhiều cuộc chuyển giao trước đó ở các thành phố nhỏ hơn ở miền Bắc,và thường được nhiều người nhớ đến bởi sự kỷ luật và quy củ.
Từ tháng chínđến tháng mười năm 1954, chính quyền VNDCCH đã thống nhất ba nguyên tắc ưu tiêntrong kế hoạch tiếp quản hành chính đô thị: (1) ưu tiên lập lại trật tự, ổnđịnh đời sống; (2) giữ lại tối đa đội ngũ kỹ thuật, công chức của Pháp-QGVN; và(3) "ghép cành" có chiến lược lên bộ máy cũ.
Một tài liệuBộ Nội vụ năm 1954 nêu rõ:
"Đối với các cơ quan chuyên môn ta chưa tổ chức bộ máy như Kinh tế,Canh nông,… hoặc đã có nhưng còn rất yếu như Y tế, Bưu điện, lúc đầu ta chỉ cửcán bộ chỉ huy vào lãnh đạo điều khiển bộ máy cũ của giặc. Trừ những tên có tộinặng theo chủ trương phải trừng trị, còn ta vẫn giữ nguyên hiện trạng bộ máycũ: những người phụ trách cấp bộ nào vào cấp bộ ấy. Dần dần, ta sẽ đưa ngườicủa ta vào."
(Kế hoạch thu hồi công sở của địch, Bộ Nội vụ 3627, Trung tâm Lưutrữ Quốc gia III)
Như các câuchuyện dưới đây cho thấy, cuộc chuyển giao thực tế phức tạp hơn nhiều. Địnhhướng của trung ương va chạm với thực tế, khả năng kỹ thuật, tâm tư cá nhân,tham vọng cách mạng và tác động bất thường của chính trị.
Ba cuộc đời trong giai đoạn chuyển tiếp
Những ký ứcdưới đây – của một cán bộ trẻ, một công chức lưu dung, và một người cách mạngnằm vùng – hé lộ ba góc nhìn khác nhau về một thời kỳ chuyển giao đầy mâu thuẫnvà biến động (tên nhân vật đã được thay đổi).
1. Phan Việt:Cán bộ trẻ và quá trình học nghề
Phan Việtsinh năm 1935 và lớn lên tại Thái Nguyên. Ông được đào tạo trong cả hệ thốnggiáo dục thuộc địa lẫn hệ thống VNDCCH. Đầu năm 1954, đang là một sinh viên trẻđang học tập ở Trường Giao thông Công chính VNDCCH, ông được điều động làm đườngdây liên lạc cho chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi tiếp tục được điều về nhóm tiếpquản Bưu điện Hà Nội.
Là một trongsố ít cán bộ được đào tạo ngành bưu chính, Phan Việt nhớ lại, trong số cán bộVNDCCH tiếp quản Bưu điện có rất nhiều người "thất học", "thậmchí còn chưa biết đọc biết viết". Quan hệ ban đầu giữa cán bộ VNDCCH vớinhân viên cũ của Pháp-QGVN bề ngoài "bình thường" và "lễphép", nhưng ông cũng mô tả sự chia rẽ về mặt tâm lý:
"[…] những người lưu dung ấy, người ta đối xử luôn luôn rất khiêm tốn,vì người ta cũng mặc cảm vì người ta là người thất bại, bây giờ là lưu dung.Nên là không có điều gì người ta làm quá lên cả.
Còn về phía kẻ chiến thắng thì trong đầu luôn luôn có chút gì đấy có vẻkhinh thường, coi thường người ta. Coi trọng người ta chẳng qua vì người ta cónghề, rồi khi mà mình đã ăn cắp được nghề của họ, mình vững vàng rồi, thì mìnhkhông sử dụng người ta nữa."
Đó là giaiđoạn hợp tác "bất đắc dĩ": chính quyền mới phải học hỏi bí quyết kỹthuật từ những người mà họ không mấy tin cậy về mặt chính trị. Phan Việt thừanhận đã học nghề từ các nhân viên lưu dung mà theo cảm nhận cá nhân của ông,đều là những người "được đào tạo rất nghiêm túc" và có tư cách và đạođức "tuyệt vời". Quá trình chuyển giao kỹ thuật diễn ra theo mô hìnhlan tỏa: nhân viên cũ dạy cho cán bộ mới, những người này lại dạy tiếp chongười khác. Chỉ khi một số lượng cán bộ tin cậy đã được rèn luyện đầy đủ, cácnhân viên cũ mới bắt đầu bị loại bỏ.
2. NguyễnHiếu: Công chức lưu dung
Câu chuyệncủa Nguyễn Hiếu đến từ phía bên kia của quá trình chuyển giao kỹ thuật sau tiếpquản. Sinh năm 1928 trong một gia đình khá giả ở Hà Nội, Nguyễn Hiếu tốt nghiệptrung học và sớm tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau khi bị quân Pháp bắttrong vùng tự do và giam tại Hỏa Lò một thời gian, ông ở lại Hà Nội, theo họctrường Y rồi trở thành bác sĩ ở Bệnh viện Yersin (sau là Bệnh viện Phủ Doãn).
Khi quân cộngsản tiếp quản Hà Nội, Nguyễn Hiếu thuộc nhóm công chức lưu dung và ông biếtchính quyền mới không tin tưởng mình: "Trước thì [tôi] là người theo cáchmạng, về lại Hà Nội rồi thì thành ngụy." Ban đầu, cuộc sống của nhữngngười ở lại vẫn diễn ra bình thường. Nhưng chỉ vài tháng sau, như tất cả cáccựu công nhân viên khác của chính quyền QGVN, Nguyễn Hiếu bị đưa đi "họccách mạng" một năm – chương trình gồm học lý thuyết chính trị và đi thựctế tham gia cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở nông thôn. Đi về Phủ Lý, ông bị sốctrước sự tàn bạo của CCRĐ và từ niềm tin cách mạng lưu giữ từ những năm 40, ôngdần nhận ra sự khắc nghiệt của chế độ mới:
"Sợ lắm, cải cách ruộng đất, sợ. Lúc bấy giờ thì mình vẫn chưatỉnh, chưa tỉnh ngộ, nhưng về sau đi sâu cải cách ruộng đất thì sợ, thì mớithấy tại sao lại như thế, giết người vô lý. […] Chết nhiều lắm. Sau cải cáchruộng đất thì mới có nhiều cái suy nghĩ, lúc bấy giờ người ta mới hiểu ra […]cái chính quyền của mình là cái chính quyền vô sản, cái nền chuyên chính vô sảnkinh khủng lắm, nó không có mức độ nào cả, anh có thể sống, anh có thể chết lúcnào không biết."
Khi nhà nướcVNDCCH không còn cần chuyên môn của hệ thống công chức và kỹ thuật viên củachính quyền QGVN nữa, những người như Nguyễn Hiếu bị giáng chức hoặc loại bỏkhỏi bộ máy; đa số "tự nguyện" chuyển xuống mức lương thấp hơn, mộtsố ít vào các trường dạy nghề, còn lại được cho "nghỉ hưu non". NguyễnHiếu trở thành kỹ thuật viên phòng X-quang – vị trí thấp hơn nhiều trình độ củaông.
3. NguyễnVăn: Người cách mạng nằm vùng
Không phảitất cả những người công chức VNDCCH (được ghép vào bộ máy cũ cùng các công chứclưu dung từ chính quyền cũ) đều là những người mới tới Hà Nội lần đầu. NguyễnVăn sinh năm 1925, lớn lên ở khu phố cổ Hà Nội trong một gia đình Công giáo.Ông tốt nghiệp tú tài hệ giáo dục thuộc địa, học nhạc, và vào đầu những năm 40thì tham gia Việt Minh với công việc phát truyền đơn và tổ chức các hoạt độngbí mật.
Sau một thờigian hoạt động trong vùng tự do sau năm 1946 và bị Pháp bắt, Nguyễn Văn trở vềHà Nội làm cán bộ nội ứng. Những tuần cuối trước tháng 10 năm 1954, ông đượcđiều động để vận động nghệ sĩ, công chức, công nhân ở lại làm việc với chínhquyền mới, chuẩn bị cho lễ tiếp quản công khai.
Sau tiếpquản, dù thuộc phía "người thắng cuộc", Nguyễn Văn cũng nhận thấynhiều bạn bè trong khu phố của mình biến mất trong năm đầu tiên của chính quyềnmới – di cư vào Nam hoặc bị thất thế. Sau khi chính thức tham gia vào chínhquyền mới với vai trò giáo viên âm nhạc tại trường Chu Văn An và sau đó làtrường Sư phạm Hà Nội, ông đối mặt với thực tế mới: "chính trị hóa giáodục" được đặt lên hàng đầu – học sinh "chỉ học về Đảng", cácnhạc sĩ "phải sáng tác ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ"; ai không phụctùng sẽ "không nhấc đầu lên nổi."
Ngay cả nhữngngười cộng sản tâm huyết cũng vỡ mộng khi chứng kiến những giới hạn của lýtưởng chính trị. Nguyễn Văn cùng các cán bộ nội ứng khác bị đưa đi "cảitạo" ở nông thôn.
Tận mắt chứngkiến CCRĐ, Nguyễn Văn nhận ra "sự tàn nhẫn và bất công của Đảng Cộngsản" và bị tổn thương sâu sắc. Trước chuyến đi học cải tạo, Nguyễn Văn đãđược mời học cảm tình Đảng, nhưng sau chuyến đi, ông quyết định không vào Đảng,dù vẫn tiếp tục làm làm việc tại Đại học Sư phạm Hà Nội và học cách thích nghiđể tồn tại. Từng là người chiến thắng, ông trở thành kẻ quan sát im lặng trongmột xã hội ngày càng khép kín.
Những mâuthuẫn sau ngày tiếp quản
Nếu quan hệgiữa "người thắng" – các cán bộ cách mạng và "kẻ thua" –các nhân viên chính quyền cũ được định hình bởi sự nghi kỵ, thì trong nội bộ"người thắng cuộc" cũng đầy cạnh tranh, so bì. Cán bộ từ "vùngtự do" – từng sống trong vùng rừng núi thời chiến – coi nhẹ mạng lướithành thị như Nguyễn Văn, gọi họ là "bọn cách mạng Hồ Gươm" – mộtcách gán nhãn khiến không ít người cảm thấy bị hạ thấp, dù họ cũng từng liềumạng vì lý tưởng. Nguyễn Văn bức xúc nhưng không dám công khai phản đối:
"Chỉ họ mới làm cách mạng? Họ có biết rằng nếu [quân Nhật] bắt đượctôi mang tư liệu, truyền đơn, báo chí, bản tin, bài hát bán lấy tiền gây quỹcho Thanh niên Thành Hoàng Diệu […] nó để tay, rồi chặt cả bàn tay luôn. Cónguy hiểm, có đáng sợ không? Nhưng có những kẻ tự cho mình là anh hùng hơn, nóikhinh miệt: 'bọn cách mạng Hồ Gươm ấy mà'."
Sự bất phụccàng sâu sắc hơn khi lý lịch cách mạng trở thành tiêu chuẩn cho quyền lợi vàđặc quyền. Phan Việt, sau khi trở thành cán bộ kỹ thuật tại Bưu điện Hà Nội,cũng bị ảnh hưởng bởi phong trào chống tư tưởng "tạch tạch sè"("tiểu tư sản") vì ông biết đọc viết, biết tiếng Pháp, và thíchđọc sách vào thời gian rảnh. Đây không phải là lần duy nhất Phan Việt cảmthấy bức xúc với tình hình chung, nhưng ông cũng đã ngầm hiểu rằng nói ra ýkiến của mình chỉ mang lại rắc rối và nguy hiểm cho bản thân:
"[…] mình cũng phải thích nghi theo môi trường để tồn tại [...] mặcdầu mình có ý nghĩ gì hơi khác thì mình cũng để im thôi, chứ mình không dámchống đối, cái đấy là cái bản năng thôi."
Sự ganh đuaâm thầm giữa người trong cuộc cho thấy rằng cách mạng không chỉ là cuộc đổithay quyền lực, mà còn là cuộc thử thách đạo đức và niềm tin của chính nhữngngười đã giành được chiến thắng.
Kết luận:
Di sản của quá trình chuyển đổi quyền lực
Khi đoànngười chiến thắng tiến qua những con phố Hà Nội vào mùa thu năm 1954, quyền uymới không tự nhiên xuất hiện từ niềm vui của đoàn quân chiến thắng hay tiếng hòreo của đám đông. Dù chiến thắng vang dội ở Điện Biên Phủ, ảnh hưởng về mặthành chính – xã hội của liên minh Pháp-QGVN chưa mất ngay; quyền lực phải đượctái thiết từng chút dựa trên bộ máy và con người của chế độ cũ.
Việc chínhquyền cộng sản tiếp quản "dinh thự" nhà nước từ bộ máy QGVN và Phápcũng chứng tỏ rằng một cuộc tiếp quản không đánh dấu một sự đứt gãy ý thức hệhoàn toàn. Thay vào đó, tiếp quản và thiết lập bộ máy nhà nước là quá trìnhphức tạp, diễn ra không đồng đều, với nhiều tranh chấp ngầm – cái cũ và mới,trật tự và biến chuyển, nghi ngờ và hợp tác cần thiết được cân bằng một cáchthận trọng.
Hai mươi nămsau, khi đoàn xe tăng tiến vào Sài Gòn, dù không thể chuẩn bị kỹ lưỡng như cuộctiếp quản Hà Nội năm 1954, nhiều người trong bộ máy cách mạng đã thuộc lòngkịch bản Hà Nội 1954 – từ cách tiếp quản cơ quan, trấn an dân chúng đến việc"ghép cành" vào bộ máy cũ, rồi thanh lọc và siết chặt tư tưởng.
Trải nghiệmHà Nội 1954-1960 nhắc chúng ta rằng thay đổi chế độ là quá trình lâu dài, vànhững người sống qua giai đoạn chuyển biến đó có những thái độ và cách hành xửkhác nhau: mặc cả, oán giận, hợp tác, và đôi khi chỉ là im lặng chịu đựng đểtồn tại.
Khi cách mạng mới kế thừa "hạ tầng"của quá khứ, thách thức lớn nhất không nằm ở việc tuyên truyền khẩu hiệu"giải phóng" hay "chiếm lĩnh", mà là ở việc quản trị thựctiễn. Nhìn lại, di sản của cuộc tiếp quản miền Bắc năm 1954 không chỉ là bàihọc về quyền lực, mà còn là lời nhắc rằng giữa "chiếm lĩnh" và"giải phóng", điều khó nhất không phải là chiến thắng, mà là học cáchcùng tồn tại trong hòa bình.
October 30, 2025
Thời vắng những nhà văn hoá lớn? bài Trần Hữu Dũng
Nguồn
https://thesaigontimes.vn/thoi-vang-nhung-nha-van-hoa-lon/
Trong một lần gặp gỡ một nhóm sinh viên trẻ ở Hà Nội vài năm trước, tôi hỏi các em: Trong xã hội Việt Nam ngày nay, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa, các em ngưỡng mộ ai nhất? Và tôi ngạc nhiên khi chẳng em nào trả lời tôi được!
Nhớ lại hồi còn trẻ, tôi có thể kể năm bảy người mà tôi ngưỡng mộ, những Đào Duy Anh, những Nguyễn Mạnh Tường, những Trần Đức Thảo, những Hoàng Xuân Hãn, những Nguyễn Hiến Lê... Còn ngày nay? Có thể chăng chúng ta đang sống trong thời vắng những nhà văn hóa lớn?
1. Thế nào là một nhà văn hóa lớn? Tất nhiên, xã hội nào cũng có những trí thức, những người tham gia (có thể rất tích cực) vào hoạt động văn hóa trong lĩnh vực này hoặc lĩnh vực nọ... Song, những nhà văn hóa lớn có một vai trò vượt trội những trí thức khác, và không phải bất cứ xã hội nào, lúc nào cũng có những nhà văn hóa như thế.
Đó là những người mà sự uyên thâm và nhất là tính kiên trì nghiên cứu (nhiều khi lặng lẽ), năng suất làm việc phi thường (hàng mấy chục quyển sách, hàng trăm bài báo, chẳng hạn) hầu như là huyền thoại trong dân gian. Chính tư tưởng của họ “định nghĩa” tính thời đại của một nền văn hóa. Nhà “văn hóa lớn”, nói cách khác, là người có những suy nghĩ vừa sâu vừa rộng, đưa ra những khám phá, lập luận, có tính tổng hợp, liên ngành (ví dụ như lịch sử và văn học, triết học), không bị giới hạn trong một ngành chuyên môn nào.
Nhà văn hóa lớn là người có những ý tưởng độc đáo, hoặc có biệt tài tổng kết nhiều luồng tư tưởng khác nhau, từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Người ấy luôn luôn bám chặt vào những tiêu chuẩn học thuật cao nhất. Qua công việc nghiên cứu của họ, họ khơi dậy sự quan tâm, nâng cao trình độ thảo luận về những vấn đề lịch sử, xã hội, văn minh... nói chung là văn hóa.
Dù bầu trời đã lấp lánh muôn sao, chúng ta vẫn cần những ngôi sao thật sáng. Đó là những ngôi sao chỉ đường, bởi lẽ một xã hội phải biết hướng tiến cho văn hóa của xã hội ấy.Một nhà văn hóa lớn còn phải là một nhà văn hóa dấn thân, nghĩa là, dù tư tưởng của họ có trừu tượng đến mấy, sự chọn lựa chủ đề của họ, hoặc cách tiếp cận chủ đề ấy, luôn luôn có một khía cạnh nhân bản, hoặc là xuất phát từ những sự trăn trở đối với những vấn đề căn bản của xã hội, của con người (hoặc, nếu hoàn cảnh bắt buộc, những vấn đề liên hệ đến chiến tranh và hòa bình).
Nếu đã được đào luyện như là nhà khoa học, một nhà văn hóa lớn có trách nhiệm suy nghĩ về tính nhân văn, tính xã hội của ngành khoa học ấy.
Văn hóa, tự thân, là một hiện tượng công cộng. Nhà văn hóa lớn có khả năng khuếch trương tính công cộng của khoa học mà không hy sinh chuẩn mực học thuật. Một nhà văn hóa lớn cống hiến cho xã hội một hệ tư tưởng, nhất là trong lĩnh vực xã hội và nhân văn, có khả năng khuấy động những trao đổi, đóng góp của những người khác trong lĩnh vực đó, và qua đó, làm giàu cho sinh hoạt tư tưởng của xã hội.
Nhà văn hóa lớn ngày nay cần phải theo dõi khít khao các luồng tư tưởng về văn hóa, chính trị, kinh tế... thế giới, bởi thế khả năng ngoại ngữ là cần thiết. Tuy nhiên, một nhà văn hóa lớn Việt Nam phải là người nhìn những luồng tư tưởng đó qua lăng kính dân tộc và văn minh của người Việt Nam.
Nói khác đi, một nhà văn hóa lớn phải đặt vấn đề văn minh của dân tộc (dù chỉ để phủ nhận nó, nếu muốn!) làm một trọng điểm của ý thức. Kiến thức là thiết yếu, nhưng một nhà văn hóa lớn phải đem kiến thức ấy phục vụ mục đích nhân văn. Nhà văn hóa lớn ngày nay phải thấm nhiễm tư duy “toàn cầu hóa” nhưng cũng phải có một thái độ rạch ròi về hậu quả của hiện tượng này đến những vấn đề quốc gia và dân tộc.
Những nhà văn hóa lớn là những ngôi sao đặc biệt sáng ngời trong bầu trời có thể đã rất nhiều sao. Những nhà văn hóa lớn không nhất thiết là những thiên tài bẩm sinh (thậm chí, họ càng đáng nể phục, càng nhiều ảnh hưởng, nếu công trình văn hóa của họ là do sự kiên trì nghiên cứu, tự học...). Một nhà khoa học xuất chúng có thể đáng ngưỡng mộ nhưng chưa chắc đã là một nhà văn hóa lớn theo nghĩa ở đây.
2. Nếu định nghĩa những nhà văn hóa lớn theo cách đó thì rõ ràng là chúng ta, hiện nay, rất thiếu những nhà văn hóa lớn. Tại sao như thế?
Nhiều người sẽ đổ lỗi cho xã hội. Xã hội không bồi dưỡng những nhà văn hóa nói chung thì làm sao có những nhà văn hóa lớn?
Sự thiếu tôn vinh này quả là đáng tiếc nhưng chưa đủ để giải thích sự thiếu vắng những nhà văn hóa lớn, vì sự thực là, như lịch sử cho thấy, đại đa số những người này không làm việc vì tiền, hay để được xã hội tôn vinh, khen ngợi. Họ cật lực suy nghĩ, viết lách, giảng dạy... vì một sự thôi thúc nội tâm, không phải vì những phần thưởng từ bên ngoài. Thậm chí, nhiều người hãnh diện vì đời sống “khổ hạnh” của mình.
Giả thuyết thứ hai, liên hệ đến giả thuyết thứ nhất, nhưng có vẻ thuyết phục hơn. Dường như ngày càng nhiều phát giác những vụ đạo văn, những vụ lừa bịp, nói chung là những hành động thiếu đạo đức của một số người đã có thời được xem là những “đại thụ văn hóa”. Có thể giải thích rằng những hành động thiếu đạo đức ấy là sự sa ngã do cám dỗ của một xã hội quá trọng vật chất. Những người đáng lẽ là “anh hùng” té ra lại có những cặp chân bằng đất sét.
Bởi vậy, sự thiếu vắng những nhà văn hóa lớn, tôi nghĩ, chỉ phần ít là lỗi của xã hội, mà phần lớn là nhược điểm của chính cộng đồng trí thức (là vườn ươm những nhà văn hóa lớn). Oái oăm là, như vẫn thường nói, “thời thế tạo anh hùng”, thì “thời thế” ngày nay không đến nỗi quá bức xúc để anh hùng “đứng lên”.
Cái “lỗi” của xã hội hiện tại không phải vì nó tích cực trù dập những hạt giống văn hóa lớn, nhưng ở sự làng nhàng, sự tầm thường tẻ nhạt của nó. Các vấn đề căn bản của xã hội, của con người, đòi hỏi những công trình văn hóa dài hạn, song những “khuyến khích” cho các công trình văn hóa trong xã hội ngày nay, nếu có, lại có tính ngắn hạn. Có một sự so le giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng văn hóa.
Nhiều người sẽ cho rằng sự thiếu vắng những trí thức lớn còn có một nguyên do khác, rằng một người trí thức “công cộng” phải được phép tự do phát biểu. Nhưng theo tôi, yếu tố thật cần là những cuộc tranh luận, nghĩa là cần những nhà văn hóa lớn khác, và những cuộc tranh luận đó phải bình đẳng, tôn trọng những tiêu chuẩn học thuật phổ quát. Trong tranh luận văn hóa, không ai được quyền dựa vào một thế lực nào ngoài văn hóa.

Có thể rằng, là một nhà văn hóa lớn ngày nay cần có những kiến thức, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ và kiến thức về sinh hoạt văn hóa toàn cầu, hơn bao giờ hết. Nhưng không hẳn là như vậy: có cả vạn người, hàng ngày lướt web khắp thế giới, nhưng chưa bao giờ thực sự là nhà văn hóa. Những thông tin họ biết là hời hợt, nông cạn.
Bởi vậy, cái nghịch lý của nhà văn hóa lớn ngày nay là phải vừa biết nhiều, nhưng không cần biết hết, mà phải biết sâu. Phải biết tổng hợp những điều mình nghe thấy với những suy nghĩ của riêng mình. Đây cũng có thể là một lý do của sự thưa vắng những nhà văn hóa lớn, tuy số “trí thức khoa bảng” thì ngày càng nhiều: Với sự chuyên biệt hóa ngành học, ngày càng hiếm đi những người thông thạo nhiều ngành khác nhau, có đủ sức tổng hợp thành một hệ thống tư tưởng độc sáng.
3. Xác nhận sự thiếu vắng những nhà văn hóa lớn là một việc, kết luận rằng đó là một sự kiện đáng quan ngại lại là một việc khác! Bởi, có người sẽ hỏi: tại sao chúng ta cần những nhà văn hóa lớn? Chúng ta có rất nhiều nhà khoa học, giáo sư, kỹ sư mọi ngành cần thiết cho sự phát triển của đất nước (và chúng ta không bao giờ thiếu những nhà thơ, nhà văn!).
Như vậy không đủ sao? Tôi nghĩ là không đủ. Đúng là chúng ta cần phát triển kinh tế, cần cơm ăn áo mặc, cần một đời sống văn hóa không đến nỗi nghèo nàn... Nhưng chúng ta cũng cần những tinh hoa vượt trội. Dù bầu trời đã lấp lánh muôn sao, chúng ta vẫn cần những ngôi sao thật sáng. Đó là những ngôi sao chỉ đường, bởi lẽ một xã hội phải biết hướng tiến cho văn hóa của xã hội ấy.
Nhưng tầm vóc của một nhà văn hóa không phải ngày một ngày hai mà có được. Hãy hy vọng rằng ngay giờ phút này đây đang có những nhà văn hóa trẻ miệt mài xây dựng sự nghiệp văn hóa của mình. Cho những người trẻ này, vào những ngày xuân hôm nay, chúng ta nâng ly chúc mừng và chúc các bạn kiên trì, may mắn, cho bạn, mà cũng cho chúng ta.
Tuấn Khanh : Nghe tiếng vọng từ nền văn minh bị chôn vùi
Cuộc thipiano Chopin danh giá tại Ba Lan năm nay, có một điều thật đặc biệt. Người ta khôngthể không chú ý đến sự xuất hiện của các thí sinh người Trung Quốc. Họ xuấthiện trong cuộc thi, với tài năng của họ, giờ đã không còn bị xem là “bản sao”của phương Tây, mà đã tạo ra những sắc thái riêng, tinh tế, cạnh tranh sòngphẳng và đôi khi còn gây nên tranh cãi trong chính hàng ngũ ban giám khảo.
Sự tương đồng đẳng cấp nghệ thuật của thế hệ trẻ Trung Quốc hôm nay – ẩn chứabên trong nó một cuộc chuyển mình âm thầm nhưng đau đớn và sâu sắc của một đấtnước từng bị xô vào thế, coi Beethoven là “kẻ thù giai cấp”.
Muốn cảm nhận được sự lớn mạnh Trung Quốc của ngày hôm nay, không thể khôngnhìn lại một Trung Quốc của nửa thế kỷ trước.
Đã có một thời, trong cơn điên loạn mang tên Cách mạng Văn hóa, văn minh phươngTây bị quy là sản phẩm độc hại cần “thanh lọc”. Những giáo sư dạy nhạc cổ điểnbị bêu riếu, đánh đập, hành hạ; những nhạc cụ phương Tây bị đập vỡ giữa quảngtrường; và những bản giao hưởng từng làm nhân loại xúc động được liệt vào danhsách “tư sản phản động”, bị lôi ra phố để đốt bỏ. Một lớp thanh niên đầu óc đỏrực, miệng hô khẩu hiệu, tay cầm gậy gộc, đã được quyền phán quyết cái gì đượctồn tại và cái gì phải tuyệt diệt.
Còn nhớ một phân cảnh trong bộ phim Red Violin(1997) của đạo diễn François Girard, đã khắc họa lại một lát cắt của cơn điênấy: một chính trị viên non trẻ, dốt nát, chất vấn người thầy dạy violon vì saoông ta lại dám truyền dạy âm nhạc của “thằng Beethoven”. Nhân vật tiêu biểu vàkiêu hãnh của cách mạng so sánh một cách ngu xuẩn rằng nhiều loại đàn của TrungHoa cũng có bốn dây, tại sao phải học thứ âm nhạc “phản động” phương Tây cũngcó chỉ bốn dây.
Câu chuyện bi hài ấy không chỉ là tình tiết điện ảnh, mà là một phiên bản đượcsao chép vô tận trong nhiều nước cộng sản thời kỳ “đấu tố văn hóa”. Khi conngười được khuyến khích căm ghét tri thức, thì dốt nát trở thành một loại vũkhí chính trị, tự do huênh hoang.
Từ trong đống tro tàn của sự ngu muội đó, Trung Quốc đã phải trải qua một hànhtrình dài của sám hối. Có thể tên gọi còn phải bàn cãi, nhưng “sám hối” để quaylại cung đường của loài người, không dị biệt là một tiến trình có thật.
Cộng sản Trung Quốc đã dìm xuống bùn sâu lãng quên, ít nhất hai thế hệ người màhọ đã dùng như chó săn – mù quáng cắn xé đồng bào mình, nhân danh cái gọi là“cách mạng”.
Lớp người đó, có những kẻ hào hứng đập đầu tượng Khổng Tử, từngđốt sách cổ, từng gọi tổ tiên là “phong kiến, thối nát”, nay họ đã biến mấttrong im lặng.
Nhưng từ xã hội tàn khốc ấy, một thế hệ khác trỗi dậy – thế hệđó biết cúi đầu trước tri thức, và vươn mình ra thế giới bằng lao động và họchỏi.
Trung Quốc đã xây dựng hàng trăm “Viện Khổng Tử” ởkhắp nơi – dù đó là công cụ mềm để bành trướng ảnh hưởng, nhưng ít nhất nó chothấy họ đã chọn văn hóa, chứ không phải bạo lực, làm công cụ định danh quốcgia. Họ đã học cách “bán” văn minh Trung Hoa bằng sự quyến rũ của học thuật vànghệ thuật, thay vì bằng tiếng hô khẩu hiệu man rợ.
Và giờ đây, trong các phòng hòa nhạc ở Warsaw hayVienna, những bàn tay người Trung Quốc đang đánh lên những bản nhạc của Chopin,Liszt, Rachmaninoff – không còn coi đó là văn hóa tư bản đồi trụy, mà tôn trọngcác giá trị của tiền nhân như mọi nghệ sĩ thật sự của thế giới.
Nếu Trung Quốc đã đi qua cơn điên dại của chínhmình để bắt đầu lại, thì Việt Nam dường như đang lặp lại một chu kỳ tương tự,chỉ là ở quy mô nhỏ hơn và trong bối cảnh ồn ào hơn, rẻ tiền hơn.
Trong những năm gần đây, giữa khi thế giới say mê bàn về trí tuệ nhân tạo, sinhhọc lượng tử, và văn hóa toàn cầu hóa, thì ở Việt Nam lại nổi lên những cuộc“đấu tố” quá khứ.
Không khó để nhìn thấy những khuôn mặt non nớt nhưng tự tinngạo mạn, đứng ra giảng giải về lịch sử như thể họ vừa phát minh ra chân lý. Họvẽ lại lịch sử bằng những nét cọ chính trị, phán xét tiền nhân bằng thứ đạo đứcgiả mạo, và coi việc bôi nhọ Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt, hay phủ nhận, xỉa xóiViệt Nam Cộng hòa – một chế độ đã không còn – như một trò chơi thể thao trênmạng.
Không có gì khác hơn ngoài một phiên bản mới củanhững “hồng vệ binh bàn phím” – những kẻ chưa bao giờ hiểu thế nào là văn minhcủa học thuật hay sự khiêm tốn trước lịch sử.
Trong bối cảnh ấy, thật khó không nhớ đến những ngày điên cuồng mà Trung Quốcđã từng phải rũ bỏ. Họ cũng từng có những “thế hệ đỏ” tự cho mình là trung tâmcủa lẽ phải, dám gọi Khổng Tử là “con chó Khổng”, đốt sách, đập tượng, xóa sạchtruyền thống, phủ nhận tiền nhân.
Và giờ, chính Bắc Kinh lại dựng lại tượngKhổng Tử, trùng tu Tử Cấm Thành, phục chế lễ nhạc cung đình, tôn vinh văn nhâncổ điển.
Còn Việt Nam thì sao?
Chúng ta vẫn chưa đủ dũng cảm để thật sự sống với chính lịch sử của mình – mộtlịch sử đa dạng, phức tạp, nhưng vĩ đại trong sự trường tồn.
Người Việt Nam thích tự hào về “bốn ngàn năm văn hiến”, nhưng ít ai nhận rarằng văn hiến không nằm trong khẩu hiệu, mà trong cách ứng xử với sự khác biệtvà quá khứ. Văn hiến không thể đồng hành với sự thô tục của ngôn ngữ khi ngườita gọi tiền nhân là “thằng”, “con”, “đồ phản động”.
Cũng chẳngcó loại văn hiến nào cho phép lựa chọn phần lịch sử như sở hữu của mình. Vàcũng không có lãnh tụ chính trị nào đủ tư cách để định hình giáo khoa lịch sửtrong tư duy riêng của mình.
Một dân tộc thật sự có văn hiến là dân tộc biết kính trọng những người đã từnggóp phần xây dựng đất nước, dù họ thuộc triều đại nào, chiến tuyến nào. Còn khimột quốc gia chọn quên đi phần quá khứ không vừa ý, thì đó chỉ là trò chơi môngmuội của những kẻ chưa trưởng thành, mà chính là những kẻ tự chối bỏ căn cướcdân tộc, vong bản.
Chúng ta đã từng thống nhất lãnh thổ lần thứ hai, nhưng nghe chừng vẫn chưathống nhất tâm hồn.
Khi một lớp người vẫn được cổ xúy để dùng cơ bắp chửi rủa bóng quá khứ, thì mộtdân tộc hùng mạnh, vẫn chỉ là những khẩu hiệu rỗng.
Trong khi đó, những vấn đề thật sự đáng bàn – như tham nhũng, môi trường, giáodục, chủ quyền – lại bị gạt sang một bên, vì quá nhạy cảm để chạm tới. Gần hơnnữa, kẻ thù hai mặt còn đầy những tội ác tươi mới với người Việt như TrungCộng, thì hầu như đều hèn hạ cụp mắt lãng tránh.
Chúng ta sẵn sàng gào thét với những bóng ma của lịch sử, chửi bới với nhữngnấm mồ, nhưng lại câm lặng trước những kẻ đang cướp đất, cướp biển, cướp sinhmệnh trên biển của đồng bào mình.
Sự hèn nhát ấy không phải là do cá nhân, mà là do một cơ chế giáo dục đã đượclập trình để con người quen với sự sợ hãi, nẹp tiếng nói riêng vào bầy đàn đểche giấu cái hèn. Từ trường học đến mạng xã hội, người ta được dạy cách tránhné sự thật, rồi tự trấn an bằng những lời “tự hào, kiêu hãnh” giả tạo.
Trung Quốc, kẻ đáng được gọi tên là “ngụy” với tất cả những gì họ đã làm, nhưngít nhất chính quyền ấy đã dám học lại bài học ấy bằng máu. Họ trả giá đắt đểhiểu rằng, chỉ có tri thức và văn hóa mới giúp một dân tộc vươn lên trong thếgiới hiện đại. Và giờ đây, khi những ngón tay người Hoa lướt trên phím đànChopin, đó không chỉ là tiếng nhạc – mà là tiếng chuông báo thức của một nềnvăn minh từng lạc lối.
Còn Việt Nam – chúng ta vẫn đang ngủ quên trong giấc mộng tự ru mình bằng nhữnglời ca tụng rỗng.
Khi thế giới tổ chức những cuộc thi trong những thánh đường ca ngợi văn minh,nhưng ở đây, ai đó đã dấy lên những “cuộc thi” của lòng hằn học, nơi người tatranh nhau phán xét quá khứ bằng sự ngu dốt, thì đó không phải là học thuật –mà là sự man rợ được hợp pháp hóa bằng micro, bằng dựa lên vào kẻ trên.
Nhìn những nghệ sĩ trẻ Trung Quốc bước lên sân khấu Chopin, tôi chợt nghĩ đếnnhững người Việt Nam vẫn âm thầm mỗi ngày viết vài bài, nói vài lời, để giữ lấymột chút ánh sáng cho sự thật. Họ không cần danh hiệu, không cần giải thưởng,chỉ mong có thể nhắc cho đồng bào mình nhớ rằng, văn minh không nằm trong nhữnglời hô hào yêu nước, mà trong thái độ khiêm nhường trước tri thức.
Rồi thời gian sẽ qua, con người, chế độ, hay cả những lý tưởng tưởng chừng vĩnhcửu cũng sẽ tan biến. Nhưng giá trị của một dân tộc sẽ còn lại – không phải ởviệc ai đã thắng ai trong quá khứ, mà ở chỗ họ đã cư xử ra sao với chính quákhứ của mình.
Khi ấy, có lẽ người Việt sẽ hiểu, văn minh không phải là một khẩu hiệu đượckhắc trên cổng trường hay trụ sở. Văn minh là khi ta biết lắng nghe bản nhạcChopin, có thể do một người Việt Nam hay Trung Hoa chơi – và thấy trong đó cảmột bài học cho chính dân tộc mình: rằng muốn bước vào thế giới, trước hết phảirũ bỏ sự ngu dốt được tổ chức như một tín điều.
October 29, 2025
Doãn Quốc Sỹ - Một người hiền - bài của Nguyễn Mộng Giác
Trích từ trang mạng của Sơn Hoàng Vũ 26-10-2025
-----------
Trong các nhàvăn lớp trước, tôi cho rằng Doãn Quốc Sỹ và Võ Hồng là hai cây bút có văn phonglãng mạn và một tâm hồn đôn hậu rất Việt Nam, cái chất Việt Nam nhân ái hiếuhòa, cần cù lương thiện, hớn hở vui mừng khi gặp người đồng điệu, mà cũng dứtkhoát phẫn nộ nói ra thành lời khi gặp chuyện bất bằng, cái chất Việt Nam chưabị những lý thuyết ngoại nhập làm cho thui chột để trở thành tàn nhẫn, độc địa,lai căng, lưu manh, lố bịch.
Thế giới tiểuthuyết của Võ Hồng không có người đáng ghét, chỉ có đa số những người hiền, mộtthiểu số rất nhỏ còn lại là những kẻ đáng thương.
Thế giới tiểuthuyết của Doãn Quốc Sỹ cũng vậy.
Tuy là mộttrong những người sáng lập ra nhóm Sáng Tạo, ông như một người anh cả ngồiriêng một góc nhìn bạn bè cùng tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn lớn tiếng đòi tắt mặttrời, tát cạn biển, giương cao cờ; khói thuốc lá phun mù phòng khách, chai biarỗng vất khắp nền nhà, để rồi khi tàn cuộc, bạn bè lăn quay ra ngủ, người anhcả lặng lẽ thu dọn những gạt tàn thuốc, những rác rưới lẫn lộn với quần áo bẩn,và đắp lên người họ những tấm chăn ấm.
Nhiều ngườitrong giới cầm bút khen và cũng chê tính đôn hậu trong tiểu thuyết Doãn QuốcSỹ. Họ lý luận rằng ông đôn hậu quá nên nhân vật tiểu thuyết của ông đẹp nhưngcó vẻ không thực, ông không lột hết được bản chất phức tạp của cuộc đời, bảnchất hàm hồ của con người, bản chất tàn nhẫn phi lý của lịch sử. Khi xây dựngnhân vật, Doãn Quốc Sỹ thường không lưu tâm moi móc những ngóc ngách xấu xa củahọ. Trái lại, ông lưu tâm tô điểm những nét đẹp của họ. Những Kha, những Miên,những Hãn, những Khiết của Khu Rừng Lau, những Thiệu những Yến của Dòng SôngĐịnh Mệnh, tuy mang cái thao thức rất-lịch-sử, nhưng lối sống của họ, lối nóinăng của họ phảng phất lối nói lối sống của những Dũng, những Loan, những Độ,những Hào của Đôi Bạn, Đoạn Tuyệt.
Cùng một nhómSáng Tạo, những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ khác một trời một vực với Bếp Lửa củaThanh Tâm Tuyền, hay Tùy Bút của Mai Thảo.
Không phảiDoãn Quốc Sỹ, như một nhà nho cuối mùa, đã mất hết khả năng thích ứng và tiếpthu cái mới. Ông là người khao khát học hỏi, nhạy cảm trước sự đổi thay, và cóđiều kiện cũng như kiến thức tiếp xúc với cái mới hơn nhiều nhà văn đồng thời.
Doãn Quốc Sỹtừng du học ở Hoa Kỳ một thời gian. Hồi hương, ông viết cuốn Sầu Mây, nhân vậtchính đã có mẫu mắt xanh, mái tóc vàng, mũi cao, da trắng. Nhưng nhân vật ấy mêca dao Việt Nam, như Miên như Kha, lãng mạn đôn hậu như Yến. Qua đôi mắt quansát của Doãn Quốc Sỹ, qua màng lọc tâm hồn ông, Con Người được viết hoa. Ôngdành chỗ rộng trong tiểu thuyết cho những người trung thực đôn hậu. Ông yêu âmnhạc, ghét những tiếng ồn, và những nhân vật ông thân yêu nếu không mê ca daothì cũng mê thích một loại nhạc khí cổ điển nào đó, hoặc vĩ cầm, hoặc dươngcầm.
Một người cótâm hồn như vậy không thể thích ứng với những nghề đòi hỏi óc mưu mẹo, đòi hỏikhả năng đối phó với nhiều hạng người phức tạp. Cũng không thể thích ứng vớinhững vụ trình diễn chiêng trống xập xình, cờ quạt mũ mãng sặc sỡ. Nếu cho rằngcái tính trời sinh là biểu hiện của định mệnh thuyết, thì định mệnh đã dành sẵncho Doãn Quốc Sỹ một nghề: Nghề giáo. Những ước mơ cao đẹp ông ấp ủ, tình yêungười yêu đất, niềm tin ở Tự do, Công bằng, Lẽ phải, chỉ có cơ hội thực hiện vàquảng bá qua hai công việc mà Doãn Quốc Sỹ cho là thích hợp nhất đối với ông,đi dạy và viết văn.
Suốt hai mươinăm trên nửa phần đất tự do của quê hương, ông đã say mê hai công việc đó. Học tròông, độc giả của ông đã yêu mến kính phục ông qua hình ảnh một ông thầy yêunghề, một nhà văn mực thước và nhân ái. Không có ai nhớ về Doãn Quốc Sỹ như mộtkẻ giương cờ gióng trống hô hào một cuộc cách mạng văn chương, hoặc một ông vuaxuống đường hô hào lật đổ cái này để bày cái khác. Kể cả khi viết về những kinhnghiệm của ông trong thời kháng chiến, kinh nghiệm về người Cộng sản, Doãn QuốcSỹ vẫn viết với giọng điềm tĩnh đôn hậu cố hữu. Ông không "nổ" nhưNguyễn Mạnh Côn, không "độc" như Võ Phiến. Người Cộng sản ông từngbiết thời thanh niên của ông, qua lời ông viết, là những nạn nhân của một chủthuyết ngoại lai, không phải là tác nhân. Và đó là chủ đề những truyện ngắn màDoãn Quốc Sỹ viết thời kỳ sau hiệp định Genève.
Nhớ về ông,phần lớn bạn bè, học trò hay độc giả nhớ tới một mẫu người Việt Nam thường thấynên thành tiêu biểu: Hình dáng mảnh mai nhưng rắn chắc, khuôn mặt xương xương,nước da nâu, đi đứng chậm rãi, và trên môi luôn có một nụ cười hiền lành. Mộtngười ung dung và tự tín, bằng lòng với những điều mình làm và cuộc sống mìnhcó. Theo quan niệm ngày trước, ông không phải là típ người "Khẳng khái cầnvương" mà thuộc loại "Thung dung tựu nghĩa".
Doãn Quốc Sỹchọn cái khó "Thung dung tựu nghĩa" vì bản tính chứ không phải vì chorằng "Khẳng khái cần vương" là việc dễ không đáng làm. Sự lựa chọn đóít va chạm quyền lợi kẻ khác, lại quảng bá tuyên xưng những điều tốt đẹp nênlàm lợi cho xã hội. Lẽ công bằng bắt buộc người đời phải mến yêu ông. Lối sốngông chọn không rực rỡ, không thời thượng, thì người ta cũng sẵn sàng dành choông một chỗ đứng yên ổn tịch mịch, để ông tiếp tục ươm những mầm non yêu đời,yêu người, yêu tổ quốc.
Doãn Quốc Sỹđược hưởng thành quả những điều mình làm trong hai mươi năm bằng một vị tríxứng đáng trên văn đàn, một địa vị tôn trọng trong giáo giới, và một nếp sốnggia đình yên ấm, trong con hẻm đường Thành Thái.
Nhưng rồi tấtcả đều khác...
Trong nhữngngày hoang mang lơ láo đó, giới viết lách Miền Nam vẫn thường gặp nhau trên phốNguyễn Huệ, Lê Lợi, Tự Do để chứng kiến cảnh những tác phẩm tim óc của mình bịđổ từng đống hoặc bày la liệt ở vỉa hè bán solde cho những ai còn muốn giữ chútdư hương của một quá khứ đã mất. Lái sách, ngoài những tay buôn bán cũ chuyênnghiệp còn có những nhà văn, nhà thơ thất cơ lỡ vận gia nhập vào lãng. Ngườimua gồm đủ thành phần: Những người mê sách, những người tưởng 30/4 cũng giốngnhư những cuộc đảo chính chỉnh lý trước đây, những chú bộ đội tò mò, những đồngbào miền Bắc chịu đựng mười mấy năm một gánh nặng mà không dám kêu than muốntìm một tâm hồn đồng điệu...
Tác phẩm vàtác giả cùng nhìn nhau bùi ngùi giữa cảnh bát nháo hỗn loạn của cuộc đời.
Trong lúcnhững người khác hối tiếc không nhanh chân hay hớn hở cho hợp thời, tôi thấyDoãn Quốc Sỹ vẫn ung dung, điềm tĩnh. Ông biết rõ những gì đang chờ đợi ông,nhưng ông quyết định ở lại. Ông nói ông không thể rời bỏ quê hương được. Ôngkhông lạc quan tếu, cũng không tuyệt vọng. Tôi nhớ ông nói nếu có gặp hoạn nạnvì những gì đã viết thì cũng đành chịu, vì không khác được. Ông phải viết nhữngđiều cần viết, và sẽ ráng viết tiếp những điều cần viết. Không nói ra, nhưngchúng tôi biết ông ngầm cho rằng muốn có chất liệu viết được những điều sẽviết, ông phải ở lại. Không hối tiếc, không hớn hở.
Ông bị bắtlần đầu giữa năm 1976, bị đày lên những trại tập trung tệ hại nhất ở caonguyên, rồi do can thiệp của dư luận quốc tế, ông được phóng thích năm 1981.Ông ra khỏi nhà tù được vài tháng, ngẫu nhiên tôi được gặp ông trong bữa"tiệc" tối do một hoạ sĩ đứng ra khoản đãi.
Anh bạn họasĩ (Vũ Hối) có một bức tranh lưu lạc ở nước ngoài từ trước 1975 và có tin bạnbè ở hải ngoại gửi về cho biết tác phẩm của anh được một hàn lâm viện mỹ thuậtchọn bảo tồn. Bức tranh đó, sau này tôi thấy nhiều cơ sở sản xuất tranh sơn màiở hải ngoại lấy mẫu sản xuất hàng loạt. Anh họa sĩ vô cùng hân hoan, nên xoaymột món tiền nhỏ, nhờ một người quen nấu cho nồi cà-ri gà, mua bánh mì và mộtít nem chả, thế là đủ làm tiệc vui khoe với thân bằng cố hữu. Tôi nhớ hôm ấymón cà-ri gà còn được dặm thêm bằng tiếng đàn nguyệt của một ông hoàng Huế đatài, và giọng ngâm của Hồ Bắc. Thơ cổ kim theo tiếng đàn khoan nhặt chỉ làmnặng lòng những kẻ bẽ bàng lơ láo là đám văn nghệ sĩ chiến bại, gồm đủ mọingành, họa có, văn có, thơ có.
Doãn Quốc Sỹxin phép về sớm khi tiệc chưa tàn, sau khi một người trong tiệc cao hứng hứanếu ai có tác phẩm cần gửi ra nước ngoài thì anh sẽ tìm cách giúp đỡ.
Tôi tiễn ôngra cửa. Nhà người bạn cho mượn làm nơi hội họp ở khu vắng vẻ, bên cạnh dòngsông và cách xa đường cái bằng một khu vườn. Đêm tối đen. Tôi hỏi thăm ông vềnhững năm tháng ở trại Gia Trung, nhân tiện hỏi hư thực về tin đồn bên ngoàibảo rằng từ khi bị bắt, ông cương quyết quay mặt vào tường, tọa thiền diệnbích, từ chối không trả lời những câu hỏi của cán bộ chấp pháp. Ông cười, rồinói:
“Anh em ởngoài vì thương nên đồn đãi như vậy. Làm vậy có ích gì! Cái cốt yếu là giữ đượctư cách".
Ông nói câuấy với giọng bình thường, không cao giọng, không bậm môi rướn cổ. Ánh đèn từtrong nhà lọt qua cửa kính, khuôn mặt của ông trông xương xương hơn xưa, nhưngánh mắt vẫn sáng vui. Nhân tiện, tôi chào từ biệt ông, thấp giọng thú thực tuầnsau tôi sẽ vượt biên. Ông im lặng một lúc, rồi nói:
“Anh em lầnlượt đi hết, cũng buồn. Nhưng nếu không thể ở lại được nữa, thì cũng đànhvậy... Qua bên đó có khi lại viết được những điều cần viết".
Nghe ông nói,lòng tôi nhẹ lại. Trước đó, đôi lúc không nhịn được, tôi thổ lộ chuyện toantính ra đi với vài bạn thân, họ đều có giọng trách. Tôi phải nại cớ này cớ nọ:Nào sống lêu bêu vô tích sự chỉ làm gánh nặng cho vợ con, nào không thể sốngmãi trong trạng thái hồi hộp, nào mình không phải là loại activiste, militant.Câu trả lời của Doãn Quốc Sỹ đầy thông cảm và nhân ái, tôi xem như một món quàý nghĩa một người đàn anh gửi cho người em vào lúc giã biệt.
Chuyến đi ấythất bại, và tôi chỉ đi thoát vào chuyến thứ 5, cuối năm 1981. Cuối năm 1982,tôi được đi định cư tại thành phố Houston Hoa Kỳ sau 11 tháng chờ đợi ở đảo.Đặt chân lên miền đất tự do, tôi ngấu nghiến đọc hết sách báo của 7 năm lưuvong. Trong một vài truyện ngắn, trong một cuốn tuyển tập, tôi nhận ra được cáivăn phong đôn hậu, thung dung và lãng mạn một thuở. Tôi đoán già đoán non tácgiả, và được một vài bạn hữu lấp lửng xác nhận.
Doãn Quốc Sỹđã viết những điều cần viết, và sẵn sàng ung dung chấp nhận tất cả mọi hậu quả,trong khi không bao giờ, phải, ông không bao giờ tự nhận mình là một chiến sĩ,một người đấu tranh. Trước sau ông vẫn là một nhà giáo kiêm nhà văn, với tất cảý nghĩa cao đẹp của hai nghiệp vụ đó.
—-
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers

