Christopher Goscha: 50 năm kết thúc chiến tranh: Việt Nam, một lịch sử khác?


·    

      Lời giới thiệu của Alex Thái
     Tác giả Christopher E. Goscha là một nhà sử học người Mỹ-Canada, hiện là giáo sư chính tại Đại học Québec à Montréal (UQAM), nơi ông giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế, chiến tranh Việt Nam và lịch sử thế giới. 
     Ông chuyên nghiên cứu về Chiến tranh Lạnh ở châu Á, quá trình phi thực dân hóa và các cuộc chiến tại Việt Nam. Goscha bảo vệ luận án tiến sĩ tại École Pratique des Hautes Études (Pháp) năm 2000 với đề tài về Chiến tranh Đông Dương trong bối cảnh xuyên quốc gia. Ông đã biên soạn và xuất bản hơn một chục đầu sách, trong đó có Historical Dictionary of the Indochina War (1945–1954), được tạp chí Choice xếp vào danh sách "Outstanding Academic Titles 2012" (Sách học thuật xuất sắc năm 2012). 
     Năm 2016, Goscha xuất bản cuốn Vietnam: A New History, đoạt giải John K. Fairbank 2017 và được đánh giá là một trong những công trình toàn diện nhất bằng tiếng Anh về lịch sử Việt Nam hiện đại. Gần đây, ông tiếp tục gây tiếng vang với The Road to Dien Bien Phu: A History of the First War for Vietnam, một khảo cứu nhiều chiều cạnh về chiến thắng Điện Biên Phủ của Hồ Chí Minh trước thực dân Pháp – sự kiện được xem như đã báo trước trải nghiệm của Mỹ tại Việt Nam sau này.

 -

Với đa số độc giả ngoài Việt Nam, quốc gia ven biển nhỏ bé này vẫn thường gắn liền với cuộc chiến kéo dài một thập kỷ, khi quân đội Hoa Kỳ sa lầy trong nỗ lực ngăn chặn cộng sản miền Bắc tiến chiếm một miền Nam không cộng sản. Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975 với sự thất bại nặng nề của Mỹ.


Nỗi thất bạicũng phủ bóng lên ký ức của Pháp về thuộc địa cũ. Thất bại ê chề mà Pháp phảichịu trong trận Điện Biên Phủ năm 1954, khi quân đội của Võ Nguyên Giáp chấmdứt 80 năm thống trị thuộc địa, vẫn còn vang vọng trong đời sống chính trị Phápcho đến ngày nay.


Ở Việt Nam,chiến thắng vẻ vang này trở thành chủ đề chiếm vị trí trung tâm trongcách dân tộc này hình dung về chính mình.


Mỗi năm, hàngtriệu học sinh và học viên quân sự được dạy rằng đất nước hình chữ"S," trải dài từ sông Hồng ở miền Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long ởmiền Nam, được xây dựng từ truyền thống bền bỉ chống lại sự xâm lược từ bênngoài. Trước khi đánh bại người Pháp và người Mỹ, người Việt đã từng đẩy lùicác đội quân xâm lược từ Trung Quốc và Mông Cổ.


Hồ Chí Minhchỉ là một trong số nhiều anh hùng đã giành lại độc lập cho Việt Nam. Theo cáchnhìn này, cả Pháp lẫn Mỹ chỉ có thể tự trách mình vì đã phớt lờ những bài họctừ lịch sử.


Tuy nhiên,việc xây dựng một câu chuyện lịch sử xoay quanh truyền thống kháng chiến sẽche mờ nhiều yếu tố quan trọng khác, và đó chính là cái giá của nó. Việc kiếntạo một quá khứ trong đó Việt Nam – với đường biên giới và hình dạng như tathấy ngày nay – luôn là một thực thể thống nhất chống lại ngoại xâm đã che phủmột lịch sử phức tạp và thú vị hơn nhiều.


Thực tế, dảiđất hình chữ S mà ta thấy trên bản đồ hiện nay không phải lúc nào cũng tồn tạiở hình dáng ấy. Giống như Hoa Kỳ, Nga hay thậm chí Trung Quốc, Việt Nam cũng làsản phẩm của quá trình mở rộng thuộc địa của chính mình. Và, như các đế chếkhác trong lịch sử, quốc gia này khởi đầu từ một vùng lõi nhỏ trước khi bànhtrướng thành một thực thể mang hình thái đế chế.


Cái nôi củanền văn minh Việt nằm ở đồng bằng sông Hồng, nơi một nhà nước độc lập, tậpquyền với kinh đô Cổ Loa hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên,gần thủ đô Hà Nội ngày nay. Dù là một nhà nước sôi động và phát triển vượt bậcso với bối cảnh đương thời, nền độc lập của Cổ Loa đã nhanh chóng chấm dứtkhi đế chế Trung Hoa ở phương Bắc bắt đầu cho quân tiến vào vùng biên cương.Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, Trung Hoa giành quyền kiểm soát vùng sông Hồng,biến Việt Nam thành quận cực nam của đế chế, mang tên Giao Chỉ. Khi ấy, lãnhthổ Việt Nam chỉ gói gọn ở đồng bằng sông Hồng và nằm dưới ách cai trị TrungQuốc trong một ngàn năm.


Sự cai trịcủa Trung Hoa đôi khi rất khắc nghiệt. Đã có những thời khắc người Việt khángcự quyết liệt, trong đó có cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứnhất Công nguyên. Quân đội nhà Hán đã được điều động để trấn áp phong tràonày. Tuy nhiên, cũng có nhiều người Việt hợp tác với chính quyền Trung Hoa, coisự cai trị ấy như một phương tiện thúc đẩy cải cách và hiện đại hóa. Trênthực tế, một ngàn năm dưới ách đô hộ đã khiến nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa ănsâu vào đời sống ở Giao Chỉ.


Các quan lại Trung Hoa giới thiệunhững khái niệm mới về luật pháp, thời gian và không gian (như các bộ luật,niên lịch, hệ thống đo lường, trọng lượng và bản đồ), cùng với nghệ thuậtquản lý hành chính, vũ khí, giấy và kèm theo đó là hệ thống chữ viết theo kýtự. Văn hóa của tầng lớp tinh hoa ở đồng bằng sông Hồng cũng thay đổi với sựxuất hiện của kiến trúc cung đình, âm nhạc, nghệ thuật và ẩm thực lấy cảm hứngtừ Trung Hoa, bao gồm cả việc sử dụng đũa. Trong giai đoạn này, Nho giáo vàPhật giáo Đại thừa trở thành một phần của đời sống văn hóa Việt Nam.


Khi đế chếTrung Hoa suy yếu vào cuối thời Đường (618–907), người Việt giành lại độc lậpvào thế kỷ 10, nhưng lại mất nó một lần nữa vào đầu thế kỷ 15, khi triều Minhkhôi phục đế chế bằng cả biện pháp chính trị lẫn quân sự. Lần đô hộ thứ hainày không kéo dài lâu; đến năm 1427, người Việt lại giành được độc lập sau mộtcuộc kháng chiến. Song, việc thoát khỏi hệ thống đế chế Trung Hoa không cónghĩa là chủ nghĩa thực dân không còn hiện diện trong câu chuyện của Việt Nam.Thực tế, nó vẫn là lực đẩy quan trọng định hướng mạnh mẽ trong tiến trìnhlịch sử.


Tương tự nhưngười Mỹ thoát ly khỏi Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 nhưng sau đó lại tạodựng một nhà nước thuộc địa riêng của họ bằng cách tiến dần về phía tây raThái Bình Dương, người Việt cũng chọn con đường bành trướng. Với sự rútlui của Trung Hoa, người Việt tập trung hướng tới việc kiến tạo đế chế riêngmình, chinh phục các vùng đất phía nam bằng vũ lực, nghệ thuật trị quốcvà ý thức hệ thuộc địa theo tinh thần Nho giáo được coi là "ưu việt"mà họ tiếp thu từ Trung Hoa.


Trong bướctiến xuống phương nam, cùng với quân lính, quan lại và dân di cư, các hoàng đếViệt Nam thiết lập những phủ bảo hộ, thúc đẩy việc định cư, đồng thời luânphiên áp dụng hình thức cai trị "trực tiếp" và "gián tiếp"đối với các cộng đồng xa xôi, đa sắc tộc, như một phần trong sứ mệnh khai hóacủa mình. Nếu người Mỹ chinh phục các tộc người bản địa và đẩy lùi các đế quốcchâu Âu tại Bắc Mỹ, thì người Việt cũng chinh phục người Chăm ở miền Trung,người Khmer thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, cùng nhiều cộng đồngphi Việt ở vùng cao nguyên lân cận.


 

Triều Lê, tồntại từ năm 1428 đến 1789 sau khi nhà Minh rút lui, chịu ảnh hưởng sâu sắc từcuộc tiếp xúc "thuộc địa" này. Khi giành lại Việt Nam và xưng đế vàonăm 1428, Lê Lợi cùng những người kế vị đã tái tổ chức nhà nước theo khuôn mẫuNho giáo. Vị hoàng đế này nhìn thấy cơ hội làm được điều mà các bậc tiền nhântừng thất bại: thiết lập quyền lực tập trung trên một đất nước rộng lớn và khóquản lý. Ông và các thế hệ kế vị thúc đẩy mô hình trị quốc theo tinh thần Nhogiáo thông qua việc mở mang trường học, đẩy nhanh các kỳ thi tuyển quan lại,và ban hành bộ luật nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức) mang đậm dấu ấn Nho giáo.


Việc mở rộnglãnh thổ quá nhanh đã châm ngòi cho nội chiến và sự hình thành các thế lực ViệtNam đối nghịch, cạnh tranh quyền kiểm soát một thực thể chính trị đang bànhtrướng. Dù danh nghĩa cai trị đất nước thuộc về triều Lê, nhưng từ sau khiTrung Hoa rút lui ở thế kỷ 15, thực tế đã hình thành hai Việt Nam: miền bắcdo họ Trịnh nắm quyền quân sự, và miền nam do các chúa Nguyễn lãnh đạo trongquá trình bành trướng. Đến thế kỷ 18, nhà Nguyễn ở phương nam đã trở thànhmột nhà nước gần như độc lập, với triều đình, bộ máy hành chính và quânđội riêng. Mọi nỗ lực của họ Trịnh nhằm đánh bại thực thể này đều thất bại.

 

Nội chiến leothang trong thập niên 1770, khi ba anh em nhà Tây Sơn, dựa vào làn sóng phẫnuất vì đói nghèo của nông dân vùng cao nguyên miền Trung, đã đánh bật nhàNguyễn khỏi kinh đô Huế và dồn họ vào các căn cứ trong rừng ở đồng bằng sôngCửu Long. Nhà Tây Sơn sau đó hướng ra bắc và cuối cùng lật đổ luôn họ Trịnhvào cuối những năm 1780. Nhà Thanh tìm cách can thiệp nhưng bất thành và cuốicùng cũng bị Tây Sơn đánh đuổi.


Tuy nhiên,tàn dư của nhà Nguyễn vẫn bám trụ từ các căn cứ rừng sâu. Thực ra, cuộc nộichiến kéo dài 30 năm chỉ thật sự chấm dứt khi dòng họ Nguyễn có một màn trở lạingoạn mục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ánh. Vị lãnh đạo quân sự quyết đoán nàyđã chỉ huy đoàn quân tiến dọc bờ biển, đưa hải quân bắc tiến, đánh bại nhà TâySơn rồi lập nên đế chế Việt Nam vào năm 1802. Dáng hình chữ S của Việt Nam ngàynay có từ năm ấy, kết quả của nhiều thế kỷ mở rộng lãnh thổ và nội chiến. Kể từthập niên 1620, đất nước này đã sống trong chia cắt. Vì thế, việc tồn tại của"hai Việt Nam" ở nửa sau của thế kỷ 20 không phải là điều lạ thường.


Từ kinh đôHuế, Minh Mạng – con trai Gia Long – cai trị thực thể chính trị mới nàybằng bàn tay cứng rắn. Lý trí đến mức cực đoan và thông minh hiếm thấy, ông dồntrọn hai thập kỷ trị vì để kiến tạo một quốc gia hiện đại. Ông cai trị vớisự khắc nghiệt, không để bất cứ điều gì cản đường. Tương tự những nỗ lực xâydựng quốc gia mà các vua Xiêm và Miến thực hiện ở phía tây biên giới Việt,Minh Mạng tin rằng quyền lực tập trung dựa trên quản trị hành chính hợp lý sẽgiúp cai trị hiệu quả hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế.


Các chínhsách hành chính của ông thúc đẩy sự thống nhất lãnh thổ, tập trung quyền lực, pháttriển kinh tế và đồng nhất về ý thức hệ. Hệ thống khoa cử được cải tổ để bảođảm tính minh bạch và chống lại những hệ lụy tiêu cực của nạn gia đình trịcùng nhiều thế kỷ phân quyền cát cứ. Thực tế, việc xây dựng một bộ máy dân sựnắm quyền chỉ huy quân đội – thay vì ngược lại – là ưu tiên của Minh Mạng và làđiều kiện cốt lõi để kiến tạo một nước Việt Nam mới.


Về kinh tế,hệ thống thuế do nhà nước quản lý, đánh trên dân cư và hoạt động thương mại,cung cấp nguồn tài chính để đầu tư vào các công trình hạ tầng lớn, nhập khẩuhàng hóa nước ngoài và trả lương cho bộ máy quan liêu ngày càng mở rộng. Việcmở rộng quyền kiểm soát hành chính xuống các tầng nấc thấp hơn cho phép huyđộng khối lượng lớn nhân công để xây dựng đê điều, đường sá và cầu cống mới. Dướithời Minh Mạng, triều Nguyễn cho xây dựng Quan lộ chạy từ Hà Nội đến Sài Gònnhằm giúp việc di chuyển quan lại và binh lính giữa hai miền hiệu quả hơn; đếnđầu thế kỷ 20, người Pháp cũng cho trải nhựa con đường này với mục đích tươngtự.


Minh Mạng cũngủng hộ việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Ông mạnh tay trấn áp nạn buôn lậu gạovà thuốc phiện, thay vào đó phát triển hoạt động thương mại do chính quyềnquản lý với Singapore, Trung Quốc và phương Tây. Triều Nguyễn cũng tổ chức cộngđồng thương nhân người Hoa thành các bang hội lớn để dễ kiểm soát và đánh thuế.


Những cảicách kinh tế và chính trị này cho thấy triều đại Minh Mạng ở đầu thế kỷ 19 xứngđáng được nhìn nhận nhiều hơn là chỉ một dòng chú thích trong lịch sử Việt Namcận đại. Điều đó không có nghĩa là ông đã hoàn thành mọi mục tiêu đặt ra, màthay vào đó cho thấy rằng tính hiện đại ở Việt Nam – cũng như ở bất kỳ nơi nàokhác – không phải là một hiện tượng tuyệt đối "có hoặc không," vàcũng không nhất thiết phải đến từ mối liên hệ thuộc địa với phương Tây.


Cũng cần lưuý rằng việc kiến tạo nước Việt Nam dưới thời Minh Mạng đã khởi phát một lànsóng chinh phục mang tính thuộc địa khác. Trong thập niên 1830, khi cải tổ bộmáy nhà nước, Minh Mạng đồng thời mở rộng lãnh thổ, sáp nhập toàn bộ Campuchiangày nay và một phần Lào. Nhưng rốt cuộc, vị hoàng đế này đã đi quá xa: khi tìmcách xóa bỏ vương quyền Campuchia, ông đã châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn vàkéo theo sự can thiệp quân sự của Xiêm.


Campuchia sauđó giành lại độc lập thông qua một thỏa thuận hòa bình do Xiêm và Việt Nam cùngthương lượng. Nói cách khác, hình dáng chữ S của Việt Nam thực sự chưa baogiờ là một tất yếu lịch sử. Cuối cùng, chính sự can thiệp của Xiêm – chứkhông phải của người Pháp – đã cứu Campuchia thoát khỏi sự thôn tính của ViệtNam vào thập niên 1840.


Khi ngườiPháp áp đặt quyền lực đế quốc của mình tại Việt Nam, họ đã xây dựng bộ máythuộc địa dựa trên nền tảng sẵn có của nhà nước Việt Nam. Thực vậy, Liên bangĐông Dương thuộc Pháp, được chính thức tuyên bố thành lập năm 1888, phản chiếumột cách lạ lùng ranh giới của "Đại Nam" dưới thời Minh Mạng củanhững năm 1830, bao gồm cả Campuchia và phần lớn Lào.


Dù hành trìnhgiành thống nhất và độc lập ở thế kỷ 20 là chìa khóa để lý giải lịch sử ViệtNam, nhưng nó thường bỏ qua sự thật rằng chưa từng có một Việt Nam duy nhất, mànhiều Việt Nam với những diện mạo rất khác biệt. Trong 80 năm dưới ách cai trịcủa Pháp, người Việt quả thực chịu nhiều đau khổ, nhưng họ không phải lúc nàocũng chỉ là nạn nhân của sự đô hộ. Bởi chính họ cũng từng là những kẻ đi chinhphục.


Các tườngthuật chuẩn mực về quan hệ Việt-Trung thường mô tả đó là một lịch sử liên tụcchống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Đây là một câu chuyện hấp dẫn đối vớinhững người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, bởi nó khơi gợi một truyền thốngkháng cự bất tận trước ngoại xâm – không chỉ trong các cuộc chiến chống Pháp vàMỹ giữa thế kỷ 20, mà cả trong xung đột biên giới với Trung Quốc những năm 1980và các căng thẳng trên Biển Đông hiện nay. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy,những câu chuyện "chống Trung Quốc" này đã đơn giản hóa thựctế.


Thay vào đó,cần nhìn nhận rằng Việt Nam – cũng như Triều Tiên và thậm chí Nhật Bản – nằmtrong một vị trí đặc thù: từng là một phần của, và luôn phải đối diện với, đếchế khổng lồ mà Trung Hoa đã tạo dựng từ thời Hán (206 TCN – 220 CN). Giốngnhư người Frank và người German (Giéc-manh) đối diện với đế chế La Mã cùngthời, người Việt đã vay mượn nhiều yếu tố từ Trung Quốc. Người Triều Tiên vàngười Nhật cũng từng làm như vậy ở những thời điểm khác nhau.


Tuy nhiên,điểm khác biệt là ở chỗ Đế chế La Mã đã sụp đổ vào thế kỷ 5, trong khi đếchế Trung Hoa thì vẫn luôn tồn tại cho đến nay. Họ luôn có khả năng tái lậpvà thậm chí mở rộng quyền lực của mình.

 

Người Việt,cũng như người Triều Tiên, vừa vay mượn từ Trung Hoa để xây dựng quốc gia vàvăn hóa riêng ở vùng ngoại vi đế chế, vừa phải luôn đề phòng nguy cơ bị kéongược trở lại trật tự cũ do Trung Quốc áp đặt. Điều này khiến người Việt luôntự thuyết phục rằng mình không phải là người Trung Hoa, dù vẫndựa vào những mô hình từ Trung Quốc, nhưng đồng thời tự xem mình như sứ giảcủa một nền văn minh "ưu việt" mà họ truyền bá xuống phương Namthông qua quá trình bành trướng thuộc địa của chính mình. Đó là một hành độngcân bằng độc đáo, khó khăn nhưng cũng đầy cuốn hút.


Người Pháp vàngười Đức không bao giờ phải lo La Mã quay trở lại để nghiền nát họ, hay chếgiễu việc họ vay mượn thể chế, thần thoại, ngôn ngữ La Mã, hoặc tự xưng là"Caesar mới" trong châu Âu hậu La Mã với các danh hiệu như Tsar, Czarvà Kaiser. Nhưng người Việt thì phải – và phải liên tục – đối mặt với điều này.


Ngày nay,những người cộng sản Việt Nam cũng rơi vào một tình huống tương tự. Họ đã vaymượn rất nhiều từ các mô hình và phương thức cộng sản Trung Quốc, từ cách tổchức quân sự, xây dựng nhà nước độc đảng, cho đến – kể từ sau cải cách kinh tếthập niên 1980 – việc điều chỉnh kinh tế thị trường nhằm duy trì sự cai trịchuyên chế của đảng cộng sản. Song lãnh đạo Việt Nam vẫn làm điều đó bất chấpbối cảnh giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đang tìm cách mở rộng đế chế củamình vượt ra ngoài phạm vi lục địa.


Mối quan hệlịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc – dù trong khuôn khổ cộng sản hay Nho giáo– đặt các nhà lãnh đạo Việt Nam vào tình thế vừa phải dựa vào mô hình TrungQuốc để duy trì quyền lực trong nước, vừa phải đối phó với sự bành trướng củađế chế Trung Hoa trên trường quốc tế. Thế cân bằng này càng trở nên khó khănkhi các lực lượng đối lập trong nước tìm cách làm suy giảm uy tín của đảng bằngviệc chỉ ra sự lệ thuộc vào mô hình Trung Quốc.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 17, 2025 01:10
No comments have been added yet.


Vương Trí Nhàn's Blog

Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Vương Trí Nhàn's blog with rss.